TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 51/2021/HSST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 55/2021/HSST, ngày 22-3-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2021/QĐXXST-HS, ngày 14-4-2021 đối với các bị cáo:
1. Lù Văn C; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 8-6-1984; tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tổ X, phường CA, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 05/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lù Văn Ch, sinh năm: 1960 và bà Cầm Thị Th, sinh năm: 1962; bị cáo có vợ: Lò Thị P; sinh năm: 1984 và 03 con, lớn nhất 17 tuổi, nhỏ 03 tuổi; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 20-12-2020, có mặt tại phiên tòa.
2. Lò Văn K; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 01-3-1978; tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tổ X, phường CA, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lò Văn M (đã chết) và bà Lò Thị O (đã chết); bị cáo có vợ: Lò Thị H; sinh năm: 1982 và 02 con, lớn nhất 18 tuổi, nhỏ 08 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 25 (hai mươi lăm) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; nhân thân: Năm 2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 4(bốn) năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 20-12-2020, có mặt tại phiên tòa.
*) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị H; sinh năm 1982; địa chỉ: Tổ X, phường CA, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. ( Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ, 30 phút, ngày 20-12-2020, tại khu vực Bản B, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Lù Văn C, Lò Văn K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:
- 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine (Lù Văn C, Lò Văn K khai là Heroine), có khối lượng 0,33 gam, trích rút toàn bộ 0,33 gam ký hiệu C1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.
- Một xe máy loại xe WAVE, nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh, đen bạc, BKS: 26 B2-323.91, số máy: 0627946, số khung: 652794, xe đã qua sử dụng cũ.
Kết luận giám định số: 72/KL, ngày 23-12-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C1 là ma túy, loại Heroine khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,33 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,33 gam, loại Heroine”. (Hoàn lại đối tượng giám định: Chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu C1, không sử dụng đến trong quá trình gửi giám định, có khối lượng C1 = 0,23 gam).
Tại cơ quan điều tra các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 20-12-2020, Lò Văn K đang ở nhà một mình thì có Lù Văn C đến và rủ K cùng lấy xe máy của K đi lên Thuận Châu tìm mua ma túy về sử dụng. K đồng ý và lấy xe máy của mình để C điều khiển chở K lên Thuận Châu tìm mua ma túy. Khi đi đến bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La cả hai cùng gặp một người đàn ông dân tộc Thái (không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) đang đứng bên đường liên bản hỏi mua được một gói ma túy loại Heroine được bằng nilon màu trắng với giá 250.000đ. Sau khi mua được ma túy, C cầm gói ma túy về tay phải rồi để K điều khiển xe máy chở C đi về nhà. Khi cả hai đi đến bản B, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Lù Văn C, Lò Văn K về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số: 36/CT-VKS, ngày 22-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La truy tố các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K về điểm, điều, khoản và tội danh trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Lò Văn K mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Lù Văn C mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,23 gam ma túy, loại Heroine + Một mảnh nilon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
Trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị H: Một xe máy loại xe WAVE, nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh, đen bạc, BKS: 26 B2- 323.91, số máy: 0627946, số khung: 652794, xe đã qua sử dụng cũ.
Các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm.
Ý kiến của các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K: Nhất trí như bản luận tội của Viện kiểm sát và không có ý kiến gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.
[2]. Ngày 20-12-2020, Lù Văn C, Lò Văn K đã có hành vi cất giữ trái phép 0,33 gam ma túy, loại Heroine. Mục đích cất giữ để sử dụng cho bản thân.
Lời khai nhận tội của các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ.
Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy không lớn, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác, là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Lò Văn K có một tiền án, chưa được xóa án tích, lại phạm tội do cố ý, là tái phạm được quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự và là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Bị cáo Lù Văn C: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Là tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo Lù Văn C phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự; bị cáo Lò Văn K đã có 01 tiền án về tội ma túy, tuy đã được đương nhiên xóa án tích, là nhân thân xấu.
Xét vai trò của các bị cáo: Bị cáo Lù Văn C là người khởi xướng việc đi mua túy. Bị cáo Lò Văn K là người có phương tiện và thực hiện tội phạm một cách tích cực. Do vậy cần cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo. Căn cứ Điều 58 Bộ luật hình sự.
Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật. Cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội.
Các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K đang bị tạm giam, tiếp tục tạm giam các bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có tài sản, không có thu nhập. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
Về nguồn gốc số ma túy các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái ( tuy nhiên cả hai đều không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) tại bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 20-12-2020. Do chỉ có lời khai duy nhất của Lù Văn C, Lò Văn K, ngoài ra không có chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.
[3]. Về vật chứng vụ án:
Đối với 0,23 gam ma túy loại Heroine thu giữ của các bị cáo còn lại sau khi trích rút gửi giám định, là hàng Quốc cấm, Nhà nước cấm lưu hành cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với một mảnh nilon màu trắng + một vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Xét không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy.
Đối với: Một xe máy loại xe WAVE, nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh, đen bạc, BKS: 26 B2-323.91, số máy: 0627946, số khung: 652794, xe đã qua sử dụng cũ thu giữ của bị cáo Lò Văn K. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản chung của bị cáo Lò Văn K và chị Lò Thị H (vợ bị cáo Lò Văn K). Do vậy cần trả cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị H.
Căn cứ điển a, điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[4]. Về án phí: Các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K phải chịu án phí Hình sợ sơ thẩm theo quy định. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố Lò Văn K phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Xử phạt bị cáo Lò Văn K 22 (hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam giữ (ngày 20-12-2020).
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 , điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Lù Văn C 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam giữ (ngày 20-12-2020).
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tiêu hủy:
+ Một phong bì niềm phong có viền màu xanh đỏ, mặt trước nhà: "Vật chứng nhập kho vụ Lù Văn C và Lò Văn K - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 20/12/2020, " Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 023852 đè lên các mép diễn của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, bên trong có: Một mảnh nilo màu trắng + 01 và phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, + Một phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, mặt trước ghi: CÔNG AN TỈNH SƠN LA, PHÒNG KỲ THUẬT HÌNH SỰ PHONG BÌ NIÊM PHONG, Vật chứng vụ: Lù Văn C và Lù văn Kỳ - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 20/12/2020, tại xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi . giờ... phút ..., ngày tháng năm 202.... Tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: Một phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + túi ni lon màu trắng chứa chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký hiệu C1 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 0,23 gam, mặt sau phong bì dán giấy niêm phong Công an tỉnh Sơn La có số seri 051587 đè lên các mép dán của phong bì và trên giấy niêm phong 3 dòng chữ ký và 3 dòng họ tên và hình hai dấu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh Sơn La.
- Trả cho chị Lò Thị H: Một xe máy loại xe WAVE, nhãn hiệu HONDA, màu sơn xanh, đen, bạc, BKS: 26B2-323.91, số máy: 0627946, số khung: 652794, xe đã qua sử dụng.
3.Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo Lù Văn C, Lò Văn K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị H được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 51/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 51/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về