Bản án 51/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 51/2017/HS-ST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở UBND xã A, huyện M, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2017/HSST, ngày 28 tháng 7 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2017/HSST – QĐ ngày 03 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo: Quàng Văn M; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1974, tại huyện M, tỉnh Điện Biên; Cư trú: Bản C, xã A, huyện M, tỉnh Điện Biên;

ĐKHKTT: Bản C, xã A, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 2/12;
Con ông: Quàng Văn T, sinh năm 1938 và bà Lò Thị E sinh năm 1946;

Có vợ: Lường Thị H, sinh năm 1976 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 1999;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 20/5/2017 cho đến ngày xét xử; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lò Thị Khánh H – Trợ giúp viên. Nơi công tác: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước Tỉnh Điện Biên.
(có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì hành vi phạm tội của Quàng Văn M được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 00 phút, ngày 20 tháng 5 năm 2017, Tại bản M, xã A, huyện M, Tổ công tác Công an xã A, huyện M bắt quả tang Quàng Văn M tàng trữ trái phép 01 gói bên trong có bột màu trắng nghi là Heroin.

Tại Cơ quan điều tra, Quàng Văn M khai nhận: Khoảng 19 giờ, ngày 20/5/2017, Quàng Văn M đi bộ lên bản M, xã A, huyện M để tìm mua hêrôin về sử dụng. Khi đi qua bản M được một đoạn thì M gặp một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, tuổi, địa chỉ nhìn giống người nghiện, M đã hỏi mua được 01 gói hêrôin của một người đàn ông dân tộc Mông với giá 250.000đ, khi mua được hêrôin M cho vào túi quần đi về nhà, còn người đàn ông đó đi đâu thì M không rõ, trên đường đi về nhà M đã sử dụng một ít bằng hình thức đốt, hít, số còn lại M cầm trong lòng bàn tay trái và tiếp tục đi về nhà, khi về đến khu vực bản M, xã A, huyện M thì bị Công an xã A đang làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng ngày 21/5/2017 thì 01 gói có trọng lượng là: 0,31gam.

Tại bản kết luận giám định số 481/GĐ – PC 54, ngày 15/6/2017 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên, kết luận: 0,31 gam là heroin: Loại hêrôin nằm trong danh mục các chất ma túy có số thứ tự: 20, danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Cáo trạng số 39/QĐ - VKS - HS, ngày 28/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố bị cáo Quàng Văn M về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo về tội danh, điều luật đã áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi đánh giá tích chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 để áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo: Xử phạt bị cáo Quàng Văn M từ 18 tháng tù đến 22 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu để tiêu hủy: 0,24g hêrôin.

Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở xã đặc biệt khó khăn nên đề nghị HĐXX miễn toàn bộ án phí hình sự cho bị cáo.

Nội dung bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 BLHS; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội “V/v hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015” cho Quàng Văn M hưởng mức án thấp nhất là 12 tháng tù.

Về án phí gia đình bị cáo Quàng Văn M là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo M nhất trí nội dung bản luận cứ của người bào chữa, bị cáo không có tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng, Quàng Văn M nhận phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn M công nhận: Khoảng 19 giờ, ngày 20/5/2017, Quàng Văn M đi vào bản M, xã A, huyện M mua 01 gói heroin của một người đàn ông dân tộc mông với giá 250.000đ, khi mua được hêrôin M đã sử dụng một ít bằng hình thức đốt hít, số hêrôin có trọng lượng là: 0,31g M đem về để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai của bị cáo tại các bút lục từ số: 45 đến BL số: 59 có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với biên bản xác định trọng lượng ngày 21/5/2017 và kết luận giám định số 481/GĐ – PC 54, ngày 15/6/2017 của cơ quan giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: 0,31 gam là hêrôin.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Quàng Văn M đã phạm tội“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện M, tỉnh Điện Biên được bố mẹ cho đi học đến lớp 2/12 ở nhà lao động sản xuất. Đến năm 1993 kết hôn với chị Lường Thị H và có với nhau 03 người con. Do thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy nên có nhân thân không tốt; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Bị cáo được xem xét để áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội quy định tại Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Theo Khoản 3 điều 7 BLHS năm 2015 thì Điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có hình phạt thấp hơn Khoản 1 điều 194 BLHS năm 1999. Hội đồng xét xử áp dụng các quy định có lợi và các tình tiết khác để quyết định hình phạt phù hợp đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại điều 48 BLHS.

Xét đề nghị của người bào chữa áp dụng cho bị cáo khoản 2 điều 46 của BLHS bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Theo khoản 5 Điều 194/BLHS quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số hêrôin bị thu giữ, bị cáo khai mua của khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở đâu vào ngày 20/5/2017. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng: 0,31 gam hêrôin (Trong đó có 0,07g gửi giám định không hoàn lại) còn lại 0,24 g heroin là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo Quàng Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nhưng bị cáo sống ở xã đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn M phạm tội: " Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Quàng Văn M 17 (Mười bẩy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20 tháng 5 năm 2017.

2. Vật chứng: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự, Điểm a Khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu để tiêu hủy: 0,24g hêrôin (Theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án ngày 31/7/2017).

3. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn M.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;