TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 06/2017/HSST NGÀY 08/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2017/HSST ngày 17 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2017/HSST- QĐ ngày 26/10/2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Tất T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1981, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 5, phường K, thành phố LC, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Con ông: Nguyễn Văn T (sinh năm 1940) và con bà Hồ Thị D (đã chết); Vợ: Lục Thị T (sinh năm 1982), con: có 01 con sinh năm 2007; Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/8/2017 đến ngày 01/9/2017 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu, có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 17 giờ 40 phút, ngày 29/8/2017, Nguyễn Tất T đi từ trường tiểu học Quyết Thắng, thuộc tổ 9, phường Quyết Thắng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu về nhà. T mang theo 01 gói ma túy đá được gói bên ngoài bằng hai túi nilon màu trắng trên miệng của hai túi được dán lại bằng dải băng dính màu đen. Khi T đi đến gần cổng Công ty TNHH một thành viên Trọng Đạt, thuộc tổ 9, phường Quyết Thắng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 01 gói ma túy đá trên tại túi quần phía trước bên trái của T đang mặc.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo T thừa nhận tàng trữ trái phép ma túy đá để sử dụng cho bản thân.
Các vấn đề khác của vụ án:
Theo lời khai của Nguyễn Tất T số ma túy đá mà Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu thu giữ của T là do T mua được của một người đàn ông tên Th (T không biết họ, địa chỉ) với giá 1.000.000đồng vào ngày 29/8/2017. Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông này nên không đề cập xử lý.
Theo Kết luận giám định số 379/GĐMT ngày 11/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Tất T trong quá trình bắt quả tang ngày 29/8/2017 gửi đến giám định có trọng lượng là 5,88 gam (Năm phẩy tám mươi tám gam) là Methamphetamine.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về quyết định nêu trên.
Bản cáo trạng số 50/KSĐT – MT ngày 17/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố bị cáo Nguyễn Tất T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo T từ 03 đến 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2017. Áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 5,15 gam ma túy tổng hợp dạng đá còn lại sau giám định.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo T rất ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
* Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
* Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Khoảng 17 giờ 40 phút, ngày 29/8/2017, tại khu vực tổ 9, phường Quyết Thắng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Nguyễn Tất T đã có hành vi tàng trữ 5,88 gam (Năm phẩy tám mươi tám gam) Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy trên.
Bị cáo Nguyễn Tất T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Nguyễn Tất T cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
* Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: bị cáo Nguyễn Tất T có nhân thân xấu, ngày 26/9/2010 bị TAND thị xã Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 80/2010/HSST và bị xử phạt 12 tháng tù, ngày 11/7/2011 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Như vậy, tính đến lần phạm tội này bị cáo T đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tạo bản thân thành công dân có ích cho xã hội mà còn tiếp tục phạm tội.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, bị cáo có bố là ông Nguyễn Văn T được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Vì vậy, cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội cai nghiện, răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội
* Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định để đảm bảo cho cuộc sống của bản thân, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án:
Đối với 5,15 gam ma túy tổng hợp dạng đá còn lại sau giám định được đựng trong một gói niêm phong bằng phong bì công văn do Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hành, là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 41BLHS, điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS.
* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tất T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
1. Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T 03 (Ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/8/2017.
2. Về vật chứng của vụ án:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41BLHS, điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 một gói niêm phong bằng phong bì công văn do Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hành, bên trong có 5,15 gam ma túy tổng hợp dạng đá.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 18/10/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 06/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về