TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 50/2021/HSST NGÀY 08/10/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 08 tháng 10 năm 2021, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2021/TLST-HS ngày 23/8/2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HS ngày 08/9/2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 32/2021/TB-TA ngày 29/9/2021 đối với bị cáo:
Đặng Văn B; giới tính: Nam, Tên gọi khác: Nguyễn Văn B; sinh năm: 1986; nơi sinh: thôn Lương S, xã Nghi V, huyện Nghi L, tỉnh Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Lương S, xã Nghi V, huyện Nghi L, tỉnh Nghệ An; trình độ học vấn:
9/12; nghề nghiệp: lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Đặng Văn L, sinh năm: 1956 và bà Nguyễn Thị H (đã chết); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân:
+ Ngày 20/12/2006 bị Công an phường Phố H, quận Hai Bà T, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính 150.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
+ Ngày 02/3/2007 bị Công an quận Ba Đ, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính 150.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
+ Ngày 23/4/2010 bị Công an phường Hàng B, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính “Cảnh cáo” về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
+ Bản án số 285 ngày 24/6/2010 của Tòa án nhân dân quận Đống Đ, thành phố Hà Nội tuyên phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 20/8/2011, đã xóa án tích.
+ Bản án số 84 ngày 17/4/2012 của Tòa án nhân dân quận Hoàn K, thành phố Hà Nội xử phạt 01 năm 3 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 26/01/2013, đã xóa án tích.
+Bản án số 247 ngày 25/7/2014 Tòa án nhân dân quận Hai Bà T, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 09/12/2014, đã xóa án tích.
Bị khởi tố bị can ngày 19/4/2021; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh; có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo:
Ông Hoàng Nghĩa L – Luật sư thuộc văn phòng Luật sư An P, Đoàn luật sư Hà Tĩnh (có mặt) Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Anh. Đàm Xuân H; sinh năm: 1991; trú tại: xã Lạc Đ, huyện Văn L, tỉnh Hưng Yên (vắng mặt) Người làm chứng:
1. Anh. Lê Quang N; sinh năm: 1980; trú tại: khối phố 16, phường Lê Lợi, TP.Vinh, tỉnh Nghệ An (có mặt)
2. Anh. Nguyễn Thanh V; sinh năm: 1970; trú tại: xóm Công T, xã Sơn K, huyện Hương S, tỉnh Hà Tĩnh (có mặt)
3. Chị. Nguyễn Thị G; sinh năm: 1990; trú tại: xóm 18 A, xã Nghi L, TP.V, tỉnh Nghệ An (có mặt)
4. Chị. Nguyễn Thị Thanh B; sinh năm: 1983; trú tại: xóm Kim L, xã Nghi L, TP.V, tỉnh Nghệ An (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 10/4/2021, tại Km58 Quốc lộ 8A thuộc địa phận thôn Kim C, xã Sơn K, huyện Hương S, tỉnh Hà Tĩnh, Phòng phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng tỉnh Hà Tĩnh, Đồn Biên phòng cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo phối hợp Đội kiểm soát ma túy – Cục Hải quan Hà Tĩnh tiến hành kiểm tra xe ô tô mang biển kiểm soát 37A–832.34 đi hướng từ Cửa khẩu Cầu Treo về thị xã Hồng L. Lái xe là Lê Quang N và người ngồi ghế phụ là Đặng Văn B (tên gọi khác: Nguyễn Văn B), phát hiện ở giữa ghế ngồi phía sau có một túi vải màu xanh đựng 10 gói ni lông màu vàng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng là Methamphetamine có khối lượng 10.000 gam và 01 gói ni lông màu xanh chứa chất tinh thể rắn màu trắng không phải là ma túy, có khối lượng 970 gam. Cơ quan chức năng đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng. Kết quả điều tra Đặng Văn B khai nhận:
Do có mối quan hệ quen biết từ trước, nên cách ngày bị bắt khoảng 1 tuần, Đàm Xuân H (sinh năm 1991, trú tại xã Lạc Đ, huyện Văn L, tỉnh Hưng Yên) gọi điện thoại bảo Đặng Văn B và một người nữa tên là Tùng (còn gọi là Tùng M) đến quán Karaoke Trà M ở thôn Hạnh L, xã Lạc Đ, huyện Văn L, tỉnh Hưng Yên để bàn bạc việc vận chuyển ma túy. Tại đây, H nhờ Tùng vào huyện Hương S, tỉnh Hà Tĩnh trước để sang Lào làm tin, còn khi nào người Lào chuyển ma túy sang Việt Nam thì B vào nhận và vận chuyển ra Hưng Yên. Tiền công của T khoảng từ 50.000.000 đồng – 100.000.000 đồng, tiền công của B thì sẽ tính sau, B và T đồng ý. Do Tùng không có điện thoại, H bảo B đưa điện thoại của B cho Tùng sử dụng và đưa cho B 3.000.000 đồng để mua điện thoại mới. B đã sử dụng số tiền này mua 01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng.
Khoảng 10 giờ ngày 09/4/2021, B bắt taxi đi từ Hưng Yên đến thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An gặp gỡ bạn bè. Khoảng 14 giờ ngày 10/4/2021, B nhờ một người bạn tên C chở đi thuê xe taxi để vào huyện Hương S, tỉnh Hà Tĩnh. Cường chở B đến quán nước của chị Nguyễn Thị G ở xóm Kim L, xã Nghi L, thành phố V, tỉnh Nghệ An, thuê xe taxi biển kiểm soát 37A – 832.34 của anh Lê Quang N với giá 1.500.000 đồng. Lê Quang N lái xe chở B lên Hương S còn C đi đâu không rõ. Do không đủ tiền, nên B xin số tài khoản của anh N và nhắn tin cho Đàm Xuân H để H chuyển trả tiền thuê xe. Sau đó, tài khoản của lái xe Lê Quang N báo đã nhận được 1.460.000 đồng từ Đàm Xuân H. Trên đường đi, H gọi điện bảo B đi đến Km22, Quốc lộ 8A, nhìn cột điện bên đường đối diện với cột mốc Km22 sẽ thấy túi xách đựng ma túy ở đó. Khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, khi xe taxi chạy đến cây cột điện bên đường, đối diện với cột mốc Km22, B xuống xe, khi nhìn thấy 01 túi vải màu xanh, biết đây là túi xách đựng ma túy do H nói nên B không kiểm tra mà xách lên xe để ở ghế sau, bảo anh Nguyên lái xe chạy về thành phố V, tỉnh Nghệ An. Anh Nguyên hỏi B: “túi gì”, B nói là “túi đồ”, không nói cho N biết đó là ma túy. Khi anh N chạy xe taxi đến Km58 Quốc lộ 8A thuộc địa phận thôn Kim C 2, xã Sơn K 1, huyện Hương S, tỉnh Hà Tĩnh thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt giữ.
* Vật chứng thu giữ:
+ 10 gói ni lông màu vàng bên ngoài mỗi gói có in hình ngôi sao và chữ nước ngoài, bên trong đều chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu M1-M10) + 01 gói ni lông màu xanh bên ngoài có in hình ngôi sao và chữ nước ngoài, bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng (ký hiệu N1) + 01 túi vải màu xanh + 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng + 01 điện thoại Samsung A70 màu xanh + 01 chứng minh nhân dân số 182377663 mang tên Lê Quang N + 01 xe ô tô Xpander biển kiểm soát 37A-832.34, màu sơn trắng + 01 giấy đăng ký xe số 008959 mang tên Lê Quang N do phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Nghệ An cấp ngày 02/4/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Lê Quang N: 01 điện thoại Samsung A70 màu xanh, 01 xe ô tô Xpander biển kiểm soát 37A-832.34, màu sơn trắng, 01 chứng minh nhân dân số 182377663 và 01 giấy đăng ký xe số 008959 đều mang tên Lê Quang N.
* Tại bản kết luận giám định số 88 ngày 14/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận:
- Chất tinh thể rắn màu trắng trong 10 gói ni lông màu vàng bên ngoài mỗi gói có in hình ngôi sao và chữ nước ngoài ký hiệu M1 đến M10 là Methamphetamine, có khối lượng 10.000 gam.
- Chất tinh thể rắn màu trắng trong gói ni lông màu xanh bên ngoài in hình ngôi sao và chữ nước ngoài ký hiệu N1 là không phải là ma túy, có khối lượng 970 gam.
Với hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 57/CT-VKS-P1 ngày 20/8/2021 Đặng Văn Bính đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh truy tố về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Đặng Văn B phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” * Về trách nhiệm hình sự: áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn B mức án “Tử hình”
* Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu giữ từ bị cáo và chất tinh thể màu trắng không phải là ma túy. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone 6 plus màu vàng thu giữ của bị cáo.
* Về án phí: bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định Luật sư bào chữa cho bị cáo đồng ý với quan điểm mà đại diện Viện kiểm sát đưa ra về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xét hoàn cảnh bản thân bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên xử bị cáo được hưởng mức hình phạt tù chung thân, đồng thời đề nghị điều tra làm rõ hành vi Đàm Xuân H thuê bị cáo vận chuyển ma túy.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bào chữa cho cho bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thời gian, địa điểm, tang vật thu giữ, kết luận giám định, biên bản sự việc, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định:
Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 10/4/2021, tại Km58 Quốc lộ 8A thuộc địa phận thôn Kim C 2, xã Sơn K 1, huyện Hương S, tỉnh Hà Tĩnh, phòng Phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng tỉnh Hà Tĩnh, Đồn Biên phòng cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo phối hợp với các lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang Đặng Văn B đi trên xe ô tô mang biển kiểm soát 37A–832.34 vận chuyển 10.000 gam Methamphetamine. Đặng Văn B khai nhận số ma túy trên do Đàm Xuân H thuê B vận chuyển từ Km22 Quốc lộ 8A, xã Sơn K 1, huyện Hương S, Hà Tĩnh ra Hưng Yên để lấy tiền công Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Đặng Văn B về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Văn B là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước ta về quản lý đối với các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác gây tổn hại về kinh tế cho gia đình, xã hội, gây khó khăn phức tạp trong việc đấu tranh phòng chống và đẩy lùi tệ nạn ma túy trong tình hình hiện nay.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi chỉ vì hám lợi trước mắt mà đã nhận việc vận chuyển ma túy giúp người khác. Khối lượng 10.000 gam Methamphetamine mà bị cáo đã vận chuyển là lớn hơn gấp nhiều lần so với mức khởi điểm tại khung hình phạt quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật Hình sự.
[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo (quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự).
Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, hành vi phạm tội của bị cáo đáng bị lên án, vì vậy cần phải được xử lý thật nghiêm minh, phù hợp với lượng ma túy khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời cũng nhằm mục đích răn đe, giáo dục. Quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên toà về mức án xử phạt bị cáo là đã phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải loại bỏ vĩnh viễn bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ nghiêm đối với việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo sống lang thang, thân cô, thế cô không có tài sản gì, việc vận chuyển ma túy lần này cũng chưa được hưởng lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy, số chất tinh thể màu trắng cùng chiếc tủi vải và tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus thu giữ của bị cáo.
[6] Đối với những hành vi, người liên quan trong vụ án:
Đối với Lê Quang N - lái xe taxi ở Khối 16, phường Lê L, thành phố Vi, tỉnh Nghệ An không biết Đặng Văn B thuê chở lên huyện Hương S, tỉnh Hà Tĩnh để vận chuyển ma túy, do đó,không xử lý trách nhiệm hình sự là có căn cứ.
Đối với Đàm Xuân H, theo lời khai Đặng Văn B là người thuê B vận chuyển ma túy từ Hương S, tỉnh Hà Tĩnh ra Hưng Yên, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh và lấy lời khai, Đàm Xuân H thừa nhận có quen biết Đặng Văn B nhưng không thừa nhận việc thuê B vào Hà Tĩnh vận chuyển ma túy. Do chưa đủ căn cứ xử lý nên Cơ quan điều tra đã tách hành vi của Đàm Xuân H để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau theo quy định pháp luật.
Đối với người đàn ông tên T Milu ở Hưng Yên, Cơ quan điều tra xác định là Lê Văn V (tên gọi khác: Nu), sinh năm 1999, trú tại thôn Xuân T, xã Đồng T, huyện Yên M, tỉnh Hưng Yên, là đối tượng nghiện ma túy, thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra đã triệu tập, xác minh nhưng chưa lấy được lời khai, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự Tuyên bố bị cáo Đặng Văn B phạm tội "Vận chuyển trái phép chất ma tuý" Xử phạt bị cáo Đặng Văn Bi “Tử hình”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
2. Về xử lý vật chứng Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự - Tịch thu tiêu hủy:
+ 9.996 gam Methamphetamine và 969,6 gam chất không phải là ma túy (đã trừ mẫu giám định) + 01 chiếc tủi vải màu xanh có dây đeo kích thước (50x60)cm - Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng.
(Tình trạng cụ thể các vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS 2015, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 23/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Đặng Văn Bính phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trong hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bị cáo Đặng Văn B được quyền gửi đơn xin ân giảm hình phạt lên Chủ tịch nước
Bản án 50/2021/HSST ngày 08/10/2021 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 50/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về