TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 142/2019/HSST NGÀY 25/09/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Vào ngày 25 tháng 9 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 134/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Phạm Xuân M - sinh năm: 1985 tại tỉnh Z; Thường trú: Đội 15, xã X, huyện Y, tỉnh Z; Chỗ ở hiện nay: Phòng số 9, số 55 Quốc lộ 1A, khu phố E, phường F, thị xã G, tỉnh H; Nghề nghiệp: Xây dựng; Trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân C và bà Nguyễn Thị X; hoàn cảnh gia đình: có vợ là Lê Thị C (đã ly hôn) có 02 con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không có ; về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 27.3.2013 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06.5.2019 đến nay, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Hóc Môn, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Huỳnh Ngọc T– sinh năm: 1991 (có mặt)
Địa chỉ: Khu vực K, phường L, Thành phố N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 05.5.2019, Phạm Xuân M gặp Nguyễn Quang B tại khu vực Phụng Thạnh 1, phường Thốt Nốt, Tp.Cần Thơ. B thuê M vận chuyển ma túy đến phòng trọ của M tại nhà trọ số 65, Quốc lộ 1A, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương sau đó B sẽ đến phòng trọ của M để nhận ma túy và trả tiền công, M đồng ý và kiểm tra một hộp giấy màu hồng B đưa, bên trong có chứa 01 gói nylon màu hồng có in chữ “A” bên trong có 36 viên nén hình tròn màu đỏ và 02 viên nén hình tròn màu xanh có khắc chữ “A”, 01 cái cân tiểu ly màu đen và một co thủy tinh. Vào lúc 00 giờ 35 phút ngày 06.5.2019, khi Phạm Xuân M điều khiển xe gắn máy biển số 65F1-429.69 từ Cần Thơ về tỉnh Bình Dương, đến trước trụ sở Ủy ban nhân dân xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn thì bị lực lượng tuần tra tổ công tác 363 Công an huyện Hóc Môn phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trên rổ đựng đồ bên trái của xe máy số ma túy và dụng cụ nói trên.
Tại Kết luận giám định số 1023/KLGĐ-H ngày 13.5.2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 36 viên nén hình tròn màu đỏ được ký hiệu mẫu M1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,4169g, loại Methamphetamine; 02 viên nén hình tròn màu xanh có khắc chữ “A” được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1824g, loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Hóc Môn, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, tuy nhiên M không cung cấp được địa chỉ, số điện thoại liên lạc với Nguyễn Quang B, do vậy chưa có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với B, M khai khi nào B nhận ma túy sẽ trả tiền công nhưng không thỏa thuận bao nhiêu.
Vật chứng thu giữ:
- 01 gói ma túy niêm phong bên ngoài ghi số vụ số 1023/19;
- 01 co thủy tinh, 01 cân tiểu ly màu đen;
- 01 cái hộp giấy màu hồng;
- 01 điện thoại di động Nokia màu đen;
- 01 điện thoại di động Samsung màu trắng;
- 01 xe máy Wavev màu trắng đen bạc biển số 65F1-429.69
Tại bản Cáo trạng số 135/CT-VKS-HS ngày 13.8.2019, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn để xét xử bị cáo Phạm Xuân M về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Huỳnh Ngọc T trình bày: xe máy Wave màu trắng đen bạc biển số 65F1-429.69 là do bà mua từ cửa hàng mua bán xe tại phường Thốt Nốt, Thành phố cần Thơ vào khoảng tháng 3.2018 với giá 13.500.000 đồng, xe này do bà đứng tên chủ sở hữu, bà không biết bị cáo M lấy xe đi vận chuyển trái phép chất ma túy nên yêu cầu được nhận lại tài sản là chiếc xe trên.
Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị xử phạt:
Phạm Xuân M mức án từ 03 (ba) đến 04 (bốn) năm tù.
Về xử lý vật chứng:
Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 gói ma túy niêm phong bên ngoài ghi số vụ số 1023/19 là vật cấm lưu hành.
Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 co thủy tinh, 01 cân tiểu ly màu đen và 01 cái hộp giấy màu hồng đây là vật không có giá trị sử dụng.
Đề nghị tịch sung ngân sách nhà nước một điện thoại di động Samsung màu trắng bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy.
Đề nghị trả cho bị cáo một điện thoại di động Nokia màu đen đây là tài sản riêng của bị cáo.
Đề nghị trả bà Huỳnh Ngọc Tmột chiếc xe gắn máy Wavev Alpha màu trắng đen bạc biển số 65F1-429.69 số khung: RLHJA 3901HY297203, số máy JA39E0297228).
Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;
Sau khi nghe lời khai nhận tội của bị cáo;
Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo cũng không có ý kiến, khiếu nại đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng.
[2] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án:
Tại Phiên toà hôm nay, bị cáo Phạm Xuân M đã khai nhận hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an huyện Hóc Môn, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng do Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Phạm Xuân M đã phạm vào tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bỡi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội..
Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, vận chuyển, sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy…. là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên vận chuyển trái phép chất ma tuý, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật.
Vào ngày 06.5.2019 bị cáo Phạm Xuân M đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy với tổng khối lượng 3,5993gram ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine thì bị công an bắt quả tang cùng với tang vật.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bị cáo M có nhân thân xấu: Ngày 27.3.2013 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”.
Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và xét hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt cho bị cáo.
[4] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 gói ma túy niêm phong bên ngoài ghi số vụ số 1023/19 qua giám định có tổng khối lượng 3,5993 gram loại Methamphetamine là vật cấm lưu hành nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 co thủy tinh, 01 cân tiểu ly màu đen và 01 cái hộp giấy màu hồng là vật không có giá trị nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động Samsung màu trắng, bị cáo dùng vào việc liên lạc mua bán ma túy nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen đây là tài sản riêng của bị cáo nên Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho thi hành án.
- Đối với chiếc xe gắn máy Wavev Alpha màu trắng đen bạc biển số 65F1-429.69 đây là tài sản riêng của bà Huỳnh Ngọc T, bà Tkhông biết việc bị cáo M lấy xe đi vận chuyển ma túy đồng thời bà T có yêu cầu được nhận lại chiếc xe trên. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà T là hợp pháp nên có cơ sở chấp nhận.
Riêng đối tượng B (không rõ lai lịch) đã đưa ma túy cho bị cáo, do không xác định được nhân thân lai lịch nên không có cơ sở truy cứu, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
[5] Các lập luận trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung truy tố tại bản Cáo trạng, một phần quan điểm luận tội của Kiểm sát viên.
Vì các lẽ trên ;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân Mphạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt:
Bị cáo Phạm Xuân M 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06.5.2019.
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự;
- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ma túy niêm phong bên ngoài ghi số vụ số 1023/19 qua giám định có tổng khối lượng 3,5993 gram loại Methamphetamine, 01 co thủy tinh, 01 cân tiểu ly màu đen và 01 cái hộp giấy màu hồng.
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung màu trắng .
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu đen nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho thi hành án.
- Trả lại bà Huỳnh Ngọc T 01 (một) chiếc xe gắn máy Wavev Alpha màu trắng đen bạc biển số 65F1-429.69 số khung: RLHJA 3901HY297203, số máy JA39E0297228).
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 122/LNK ngày 21.6.2019 của Công an huyện Hóc Môn.)
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 142/2019/HSST ngày 25/09/2019 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 142/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về