TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 49/2021/HSST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 47 /2021/HSST ngày 04 tháng 6 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST–HS ngày 09 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Phạn Thị Kim T, sinh năm 1974, tại tỉnh Quảng Nam.
Nơi cư trú: Số nhà xx, đường T, khu Đ, thị trấn Đ1, huyện B, tỉnh Bình Phước ; nghề nghiệp: Viên chức; trình độ học vấn: 09/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; con ông Phan Châu Gvà bà Trần Thị L; bị cáo có chồng và 02 người con lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
2. Hồ Văn M, sinh năm 1967, tại tỉnh Bến Tre.
Nơi cư trú: Số nhà xx, đường T, khu Đ, thị trấn Đ1, huyện B, tỉnh Bình Phước ; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn D và bà Hồ Thị Ng; bị cáo có vợ và 01 người con đã trưởng thành; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
3. Nguyễn Thị T1, sinh năm 1974, tại tỉnh Quảng Nam.
Nơi cư trú: Số nhà xx, đường T, khu Đ, thị trấn Đ1, huyện B, tỉnh Bình Phước ; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị Ng; bị cáo có chồng và 02 người con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
4. NguyễnThị Thiên H, sinh năm 1985, tại tỉnh Đăk Nông.
Nơi cư trú: Khu Đ, thị trấn Đ1, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân C và bà Nguyễn Thị H; bị cáo có chồng và 01 người con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
5. Nguyễn Thị M1, sinh năm 1971, tại tỉnh Quảng Nam.
Nơi cư trú: Khu Đức Lập, thị trấn Đ1, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Viên chức; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị N; bị cáo có chồng và 01 người con sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
6. Võ Thị H1 (tên gọi khác: Quả), sinh năm 1982, tại tỉnh Quảng Ngãi.
Nơi cư trú: Khu Đức Lập, thị trấn Đ1, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Quang và bà Bùi Thị Bông; bị cáo có chồng và 01 người con sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ ngày 24/02/2021, Nguyễn Thị M1, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H và Võ Thị H1 đã rủ nhau đánh bài “cát tê” thắng thua bằng tiền tại nhà bà Phan Thị Kim T. Sòng bạc chơi tới khoảng 12 giờ cùng ngày T đi làm về, thấy mọi người xin đánh bài T không ngăn cản mà đồng ý cho đánh tiếp. Cách thức đánh bài cát tê là sử dụng bộ bài tây 52 lá, giá trị lá bài phụ thuộc vào số trên lá bài, xếp hạng như sau: A>K>Q>J>10>9>8>7>6>5>4>3>2. Bắt đầu ván bài, mỗi người sẽ được chia 6 lá bài. Nếu mở lên được trường hợp nào dưới đây thì người chơi sẽ được thắng ngay lập tức (thắng trắng): Có tứ quý và 6 lá cùng chất (cơ, rô, chuồn, bích).
Người bắt đầu vòng chơi đánh xuống 1 lá bài, người tiếp theo (theo chiều ngược kim đồng hồ) có hai lựa chọn:
- Đánh xuống lá bài cùng chất, độ giá trị lớn hơn lá vừa đánh.
- Nếu không có thì úp xuống (thiệp) một lá bất kì.
Vòng chơi kết thúc khi tất cả mọi người đều đã đánh hoặc úp bài, người chơi đánh xuống lá bài to nhất được giữ lại lá bài đó (gọi là tùng) và được vào vòng tiếp theo. Sau 4 vòng, những người không giữ được lá bài nào (không có tùng) sẽ bị xử thua ngay và dừng cuộc chơi. Nếu chỉ môt người có tùng thì người đó được thắng ngay lập tức, ván bài kết thúc. Nếu nhiều hơn một người có tùng thì sẽ vào vòng 5, 6. Người thắng lá bài của người đánh ra ở vòng 4, chưng (tức là đưa) một lá bài lên cho các người chơi còn lại nhìn thấy và giấu lá bài còn lại phía dưới. Lúc này, người chơi còn lại có 2 lựa chọn, một là đưa ra lá bài cùng chất lớn hơn để dành quyền chưng hoặc không có thì chờ người chưng lật lá bài cuối cùng của mình ra (gọi là xổ bài) và những người khác cũng vậy, người thắng cuộc là người có có quân bài đồng chất lớn hơn lá bài của người chưng xổ ra. Cá nước: Là người chia bài, khi chia bài đều cho mỗi người 6 lá xong thì sẽ bốc một lá bài, nằm trong số bài thừa của bộ bài và úp xuống. Khi kết thúc ván bài thì lật lá bài này lên, trong số người chơi ai có lá bài trong 6 lá của mình cùng chất và giá trị lớn hơn lá bài của người này thì sẽ là người thắng và ngược lại.
Các con bạc giao ước: Mỗi ván mỗi người bỏ ra 40.000 đồng (trong đó 20.000 đồng là tiền đánh bài theo luật chơi thường, còn 20.000 đồng là tiền cá nước) để ở giữa chiếu bạc. Nếu người nào vừa thắng bài, vừa thắng cá nước thì thắng được 200.000 đồng. Nếu một người thắng bài, một người thắng cá nước thì mỗi người thắng được 100.000 đồng. Nếu ai thắng trắng thì được thêm 20.000 đồng từ những người chơi còn lại và người thắng phải bỏ ra 20.000 đồng tiền “xâu” cho T.
Số tiền các bị can sử dụng đánh bạc, như sau: Hồ Văn M 1.200.000 đồng, thua 570.000 đồng; Nguyễn Thị T1 1.120.000 đồng, đánh thắng 1.050.000 đồng; Nguyễn Thị Thiên H 2.300.000 đồng, thua 1.170.000 đồng; Nguyễn Thị M1 700.000 đồng, đánh thắng 530.000 đồng; Võ Thị H1 1.100.000 đồng, đánh thắng 130.000 đồng, thu giữ 300.000 đồng trong thau nhôm. Trong quá trình đánh bài, H1 đi vệ sinh, để tiền lại và nhờ T đánh giúp khoảng 3 ván.
Vật chứng thu giữ: 6.420.000 đồng, 03 bộ bài tây, 01 thau nhôm, 01 cái chăn màu hồng. Cơ quan CSĐT - Công an huyện B chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện B để phục vụ quá trình truy tố, xét xử.
Tại Cáo trạng số 49/CT –VKS ngày 04/6/2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố các bị cáo Phan Thị Kim T, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 về Tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh đề nghị tuyên các bị cáo Phan Thị Kim T, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 phạm Tội đánh bạc.
Về hình phạt đề nghị:
Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Phan Thị Kim T từ 30 đến 40 triệu đồng.
- Xử phạt bị cáo Hồ Văn M từ 20 đến 30 triệu đồng.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 từ 20 đến 30 triệu đồng.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thiên H từ 20 đến 30 triệu đồng.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M1 từ 20 đến 30 triệu đồng.
- Xử phạt bị cáo Võ Thị H1 từ 20 đến 30 triệu đồng.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo Phan Thị Kim T, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT- Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Ngày 24/02/2021, Phan Thị Kim T, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 đánh bài bằng hình thức “cát tê” thắng thua bằng tiền tại nhà Phan Thị Kim T thuộc khu Đ, TT. Đ1, huyện B, tỉnh Bình Phước, thì bị Công an huyện B bắt quả tang, thu giữ tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 6.420.000 đồng Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của các bị cáo Phan Thị Kim T, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 đã phạm vào Tội đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điều 321. Tội đánh bạc 1. “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.
Như vậy, nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái phép nhưng do coi thường pháp luật nên cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.
Xét toàn bộ vụ án, tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo đánh bạc thuộc hình thức nhiều người cùng tham gia với một người, tham gia với vai trò đồng phạm.
Trong đó, bị cáo Phan Thị Kim T sử dụng nhà thuộc sở hữu của mình cho các bị cáo đánh bạc và trực tiếp tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền với các bị cáo khác nên bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn các bị cáo khác. Các bị cáo Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 cùng tham gia đánh bạc nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa tất cả các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, các bị cáo là người lao động, bị cáo Nguyễn Thị Thiên H có con còn nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 6.420.000 đồng mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.
Cần tịch thu tiêu hủy: 03 bộ bài tây, 01 thau nhôm, 01 cái chăn màu hồng.
[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Quan điểm xử lý vụ án của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Phan Thị Kim T, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 phạm Tội đánh bạc.
Về hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Phan Thị Kim T 40.000.000 đồng (bốn mươi triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Hồ Văn M 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thiên H 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị M1 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
- Xử phạt bị cáo Võ Thị H1 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
[2] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 6.420.000 đồng mà các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.
Tuyên tịch thu tiêu hủy: 03 bộ bài tây, 01 thau nhôm, 01 cái chăn màu hồng.
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Phan Thị Kim T, Hồ Văn M, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị Thiên H, Nguyễn Thị M1 và Võ Thị H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 49/2021/HSST ngày 23/06/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 49/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về