TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 49/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ M-ANH NH
Ngày 05 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 70/2020/TLST–HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48A/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Phan Thị M, sinh năm 1981.
Địa chỉ: SN 2x, đường L, khu phố Th, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương.
Bị đơn: Anh Phan Văn Nh, sinh năm 1975.
Địa chỉ: Thôn Ng, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
(Tại phiên tòa có mặt các đương sự)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện được bổ sung bằng biên bản ghi lời khai nguyên đơn là chị Phan Thị M trình bày: Chị và anh Phan Văn Nh tự do, tự nguyện tìm hiểu kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q vào năm 1999, sau khi kết hôn cả hai đều sinh sống tại xã Q, sau đó vào miền Nam lao động tự do đến năm 2009 lại trở về quê sinh sống. Trong quá trình chung sống do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống đã dẫn đến phát sinh mâu thuẫn. Tháng 01/2019 (âm lịch) mâu thuẫn căng thẳng, chị M đã đưa con chung vào tỉnh Bình Dương sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị xin được ly hôn anh Nh.
Về con chung: Chị M khai vợ chồng có 02 con chung là Phan Thị Ph, sinh ngày 21/10/1999 và Phan Văn Quốc V, sinh ngày 09/3/2009. Hiện con lớn đã trưởng thành, không đặt trách nhiệm nuôi dưỡng, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phan Văn Quốc V và không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Chị M không yêu cầu giải quyết tài sản chung, vợ chồng không có nợ chung và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn là anh Phan Văn Nh tại biên bản ghi lời khai trình bày: Anh xác nhận lời khai của chị M về điều kiện kết hôn, thời gian chung sống của vợ chồng cũng như nguyên nhân mâu thuẫn nhưng anh xác nhận tình cảm vợ chồng giữa anh và chị M vẫn còn, anh đề nghị xin được đoàn tụ vợ chồng. Tại phiên tòa anh đề nghị tình cảm vợ chồng không còn, anh cũng nhất trí xin được ly hôn chị M.
Về con chung: Anh Nh xác nhận vợ chồng có 02 con chung như chị M đã khai. Quá trình giải quyết anh đề nghị xin được đoàn tụ vợ chồng nên anh không đưa ra quan điểm nuôi dưỡng con chung. Tại phiên tòa anh yêu cầu giải quyết theo pháp luật.
Về tài sản chung: Anh Nh xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, vợ chồng không có nợ chung và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Hồ sơ vụ án từ giai đoạn thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án đã lập và thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, tuân thủ đúng trình tự luật định. Tại phiên tòa việc xét xử vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng trình tự pháp luật. Đối với nguyên đơn và bị đơn trong giai đoạn tố tụng và tại phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTV QH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị M và anh Nh được thuận tình ly hôn. Về con chung: Xử giao con chung Phan Văn Quốc V cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chị M không yêu cầu nên anh Nh không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Chị M và anh Nh không yêu cầu giải quyết, vì vậy không đặt ra giải quyết. Chị M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về tố tụng: Bị đơn có nơi cư trú tại Thôn Ng, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình theo quy định tại Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Phan Thị M và anh Phan Văn Nh được xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện tìm hiểu kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q vào ngày 08/10/1999 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn cả hai vào miền Nam lao động tự do được một thời gian lại trở về xã Q sinh sống. Trong quá trình chung sống, do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống đã dẫn đến phát sinh mâu thuẫn. Tháng 01/2019 (Âm lịch) mâu thuẫn căng thẳng, chị M đã đưa con chung vào tỉnh Bình Dương sinh sống và sống ly thân từ đó cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị M làm đơn khởi kiện đề nghị xin được ly hôn anh Nh. Đối với anh Nh trong quá trình giải quyết vụ án anh đề nghị tình cảm vợ chồng vẫn còn và xin được đoàn tụ, tại phiên tòa anh đề nghị tình cảm vợ chồng không còn, anh cũng nhất trí xin được ly hôn chị M. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị M vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị xin được ly hôn, điều đó chứng tỏ cuộc sống tình cảm vợ chồng giữa chị M và anh Nh đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, cần căn cứ vào Điều 51 và 55 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị M và anh Nh được thuận tình ly hôn là có căn cứ.
[3]Về con chung: Xét nguyện vọng của chị M về nuôi dưỡng con chung cho thấy, chị M và anh Nh có hai con chung, con lớn hiện đã trưởng thành, không đặt trách nhiệm nuôi dưỡng, con chung Phan Văn Quốc V, sinh ngày 09/3/2009, chị M đề nghị xin được trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con chung. Còn đối với anh Nh đề nghị giải quyết việc nuôi con chung theo quy định của pháp luật. Xét thấy hiện tại con chung được chị M đang trực tiếp nuôi dưỡng chu đáo kể từ khi sống ly thân cho đến nay, con chung có ý kiến bày tỏ nguyện vọng xin được ở với mẹ, vì vậy cần giao con chung Phan Văn Quốc V cho chị M được trực tiếp nuôi dưỡng phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4]Về tài sản chung: Chị M và anh Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy phần tài sản Tòa án không xét.
[5]Về án phí và lệ phí tòa án: Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6]Về quyền kháng cáo: Chị M và anh Nh có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTV QH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phan Thị M và anh Phan Văn Nh được thuận tình ly hôn.
2/Về con chung: Xử giao con chung Phan Văn Quốc V, sinh ngày 09/3/2009 cho chị M được trực tiếp nuôi dưỡng. Chị M không yêu cầu anh Nh cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Nh có quyền đi lại thăm nom con chung.
3/Về tài sản chung: Chị M và anh Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4/Về án phí: Chị M phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền chị M đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004337 ngày 09/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ thành tiền án phí.
5/Về quyền kháng cáo: Chị M, anh Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.
Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 05/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung giữa chị M-anh Nh
Số hiệu: | 49/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về