TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 49/2019/HNGĐ-PT NGÀY 06/09/2019 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 06 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2019/HNGĐ-PT ngày 07 tháng 8 năm 2019 về việc: “Tranh chấp chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2019/QĐ-PT ngày 23/8/2019 giữa:
1.Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Y, 1976 (có mặt).
HKTT: phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thọ A, 1960 (có mặt).
Trú tại: phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa.
Người kháng cáo: Chị Đỗ Thị Y.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Về hôn nhân: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 20/8/2018 và quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn chị Đỗ Thị Y trình bày:
Chị và anh Nguyễn Thọ A kết hôn ngày 03/9/1977 tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Tĩnh Gia. Vợ chồng chung sống hạnh phúc có 01 con chung là Nguyễn Đỗ Huy H, sinh ngày 01/8/1998. Đến năm 2010 phát sinh mâu thẫn, nguyên nhân do anh A quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ và có con riêng nên anh chị quyết định sống ly thân, chị ở phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa. Từ đó đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.
Theo anh Nguyễn Thọ A: Về thời gian và điều kiện kết hôn thống nhất như chị Y trình bày. Quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn là do chị Y không tôn trọng anh và gia đình chồng. Tháng 01/2002 khi anh đi làm xa, chị Y đã tự động thuê xe tắc xi chở đồ đạc và mang con đi nơi khác ở, anh đã nhiều lần đến đón nhưng chị Y không về, từ đó tình cảm vợ chồng lạnh nhạt. Đến năm 2004 anh xây nhà tại địa chỉ phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa. cho chị Y và cháu H là con chung của anh chị ở, mục đích để vợ chồng đoàn tụ, nhưng sự cố gắng của anh không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2004 đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay chị Y làm đơn ly hôn anh cũng đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết.
- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Đỗ Huy H, sinh ngày 01/8/1998, cháu đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản: Anh chị thống nhất khai vợ chồng có khối tài sản chung gồm:
+ Đất và tài sản trên đất tại phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa, hiện tại chị Y và cháu H đang quản lý, sử dụng. Về thủ tục đã có GCNQSĐ do UBND thành phố Thanh Hóa cấp ngày 22/12/2003 mang tên hai vợ chồng.
+ Đất và tài sản trên đất tại số phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa hiện tại anh A đang quản lý, sử dụng. Về thủ tục chưa có GCNQSDĐ, có Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/5/2001giữa bên bán là bà Đỗ Thị Liêm và bên mua là anh A, chị Y; được UBND thành phố Thanh Hóa cấp giấy “xác nhận về hiện trạng sở hữu nhà ở và sử dụng đất”, Theo chị Y, chị đề nghị chia cho chị ½ giá trị tài sản, cụ thể chị tiếp tục sử dụng căn nhà và đất phường Ngọc Trạo thành phố Thanh Hóa, anh A tiếp tục ở phường Đông Vệ thành phố Thanh Hóa, nhưng anh phải đưa thêm cho chị 600.000.000đ, ngược lại nếu anh A ở căn nhà phường Ngọc Trạo chị sẽ đưa cho anh 600.000.000đ.
Theo anh A, hai bên đã ở ổn định nên anh tiếp tục sử dụng căn nhà phường Ngọc Trạo, chị Y căn nhà phường Đông Vệ, anh sẽ tự nguyện chênh lệch thêm cho chị Y 150.000.000đ, nếu chị Y không đồng ý thỏa thuận anh đề nghị Tòa chia theo pháp luật.
- Về công nợ: Anh chị thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản án sơ thẩm số 35/2019/HNGĐ-ST ngày 28/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa đã Quyết định:
Áp dụng: Điều 56; Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về hôn nhân: Chấp nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Đỗ Thị Y và anh Nguyễn Thọ A.
- Về con: Công nhận cháu Nguyễn Đỗ Huy H, sinh ngày 01/8/1998 là con chung của chị Y và anh A, cháu đã thành niên không yêu cầu Tòa giải quyết.
- Về tài sản: Chấp nhận yêu cầu của chị Y chia tài sản chung của vợ chồng:
+ Giao cho anh Nguyễn Thọ A sở hữu, sử dụng căn nhà gắn liền với diện tích đất 69,3m2 tại phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa. Phía Bắc giáp nhà bà Chinh16,5m2, phía Nam giáp nhà bà Thái 16,5m2, phía Đông cách tim đường quốc lộ 4,2m2, phía Tây giáp rãnh thoát nước rộng 4,2m2 (nay là ngõ 39), có giấy xác nhận số 753 ngày 24/7/2002 của UBND thành phố Thanh Hóa mang tên Nguyễn Thọ A và Đỗ Thị Y, Tổng giá trị tài sản 902.492.500đ, anh A có trách nhiệm thanh toán tiền chênh lệch tài sản cho chị Y 7.532.000đ và làm thủ tục với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Giao chị Đỗ Thị Y sở hữu, sử dụng căn nhà gắn liền với diện tích đất 66m2 tại phường Đông vệ, thành phố Thanh Hóa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3093 do UBND thành phố Thanh Hóa cấp ngày 22/12/2003 mang tên anh Nguyễn Thọ A và chị Đỗ Thị Y. Tổng giá trị tài sản 894.960.000đ.
+ Chấp nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Thọ A hỗ trợ cho chị Y số tiền 100.000.000đ để nuôi cháu Nguyễn Đỗ Huy H học đại học.
+ Chị Y được nhận từ anh A tiền chênh lệch tài sản 7.532.000đ và 100.000.000đ để nuôi cháu Nguyễn Đỗ Huy H học đại học.
- Về công nợ: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngày 09 tháng 7 năm 2019, chị Đỗ Thị Y có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm với các nội dung:
- Về tài sản, yêu cầu giải quyết cho chị được ở căn nhà phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa vì mẹ con chị đang có hộ khẩu tại đây, đề nghị tạo điều kiện cho chị phải nuôi con ăn học, bản thân thường xuyên bị bệnh trầm cảm phải điều trị, thu nhập không đủ trang trải;
- Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán không cho Luật sư của chị hỏi bị đơn về 02 giấy khai sinh của Nguyễn Thị Như H, sinh năm 2007 và Nguyễn Quang V, sinh năm 2015 là con của ai, cô Lương Thị Ncó quan hệ thế nào với bị đơn và Luật sư đã đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng điểm a, điểm d khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình, nhưng Thẩm phán cho rằng Luật sư không có ý kiến gì là không đúng với diễn biến phiên tòa.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Chị Y giữ người kháng cáo và đồng ý tiếp tục ở căn nhà phường Đông vệ, thành phố Thanh Hóa, nhưng yêu cầu anh A phải đưa lại cho chị số tiền 400.000.000đ. Các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của chị Y, giữ nguyên bản án sơ thẩm của TAND thành phố Thanh Hóa.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án số 35/2018/HNGĐ-ST ngày 28/5/2018 của TAND thành phố Thanh Hóa bị nguyên đơn kháng cáo một phần về tài sản và một phần thủ tục tố tụng về diễn biến phiên tòa, việc kháng cáo của chị Đỗ Thị Y trong thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của chị Y đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chia cho chị căn nhà phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa, thấy rằng:
[2.1] Quá trình giải quyết, các bên đều thống nhất tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng có hai căn nhà kèm đất ở, gồm nhà số phường Đông Vệ và nhà phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa.Tại Biên bản hòa giải ngày 24/12/2018, chị Y đề nghị tiếp tục sử dụng căn nhà ở phường Ngọc Trạo, anh A tiếp tục sử dụng căn nhà ở phường Đông Vệ, nhưng yêu cầu anh phải đưa thêm cho chị 600.000.000đ và ngược lại. Anh A cũng có nguyện vọng tiếp tục ở tại căn nhà số phường Đông Vệ nếu chị đồng ý thì anh sẽ giao thêm cho chị 150.000.000đ, nếu chị không đồng ý thì đề nghị Tòa xử theo pháp luật (BL47,48).
[2.3] Do các bên không thống nhất được, ngày 18/01/2019, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành thẩm định, định giá tài sản theo giá thị trường:
- Nhà số Nguyễn Văn Trỗi, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa: Diện tích đất ở 69,3m2 x7.000.000đ/m2 = 485.000.000đ; trên đất có nhà khung cột bê tông, mặt trước bốn tầng xây dựng năm 2000 kết hợp nhà hai tầng lợp mái tôn phía sau, trị giá nhà 424.924.500đ. Tổng trị giá nhà + đất: 910.024.500đ (BL90,94).
- Nhà số phường Đông vệ, thành phố Thanh Hóa: Diện tích đất ở 66m2 x 6.000.000đ/m2 = 396.000.000đ; trên đất có nhà ba tầng khung cột bê tông xây dựng năm 2004, diện tích xây dựng 198m2, trị giá nhà 498.960.000đ. Tổng trị giá nhà + đất: 894.960.000đ (BL97-99).
[2.5] Theo kết quả xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm tại khu phố 7, phường Ngọc Trạo thì anh A và chị Y có thời gian chung sống tại SN 04/71 Nguyễn Văn Trỗi từ năm 1997, đến năm 2001chị Y đã đi ở nơi khác, anh A và các con của anh vẫn ở tại địa phương (BL41); kết quả xác minh tại phố Mật Sơn 1, phường Đông Vệ thì từ năm 2004 chị Y và cháu H đã sinh sống tại SN 36/284 Mật Sơn 1 cho đến nay (BL42). Phù hợp với xác nhận của những người hàng xóm liền kề của anh A tại phố Nguyễn Văn Trỗi phản ánh từ năm 2002 chị Y và cháu H không ở tại SN 04/71 Nguyễn Văn Trỗi. Mặt khác trong đơn xin ly hôn chị Y cũng trình bày từ năm 2010 vợ chồng đã sống ly thân, chị và cháu H ở tại SN 36/284 Mật Sơn 1 (BL09). Như vậy, mặc dù chị Y có đăng ký hộ khẩu tại SN 04/71 Nguyễn Ngọc Trạo, nhưng trong thực tế chị và cháu H đã không sinh sống tại nơi đăng ký hộ khẩu từ nhiều năm. Mặt khác theo trình bày của anh A thì tại SN04/71 Nguyễn Văn Trỗi, hiện nay anh đang cho Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng giao thông H Sơn thuê, trong Công ty hiện có con trai của anh là Nguyễn A Sơn đang làm Phó Giám đốc và con gái là Nguyễn Thị Hương Giang làm Kế toán trưởng, việc thay đổi nơi ở làm ảnh hưởng đến cuộc sống của bố con anh và hoạt động của Công ty.
[2.6] Từ những căn cứ nêu trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử giao cho anh A tiếp tục sử dụng căn nhà và đất ở tại số 04/71 Nguyễn Văn Trỗi, phường Ngọc Trạo và giao chị Y tiếp tục sử dụng căn nhà và đất ở tại 36/284 Mật Sơn 1, phường Đông Vệ là phù hợp với thực tế, đảm bảo tiếp tục ổn định cuộc sống, sinh hoạt và công việc của cả hai bên, do đó nội dung kháng cáo của chị Y yêu cầu chia lại cho chị căn nhà 04/71 Nguyễn Văn Trỗi là không có cơ sở chấp nhận.
[3] Về nghĩa vụ thanh toán chênh lệch khi chia tài sản, kết quả định giá tài sản theo giá thị trường, căn nhà và đất tại số 04/71 Nguyễn Văn Trỗi, phường Đông Vệ trị giá 910.024.500đ; căn nhà và đất tại số 36/284 Mật Sơn 1, phường Đông vệ, thành phố Thanh Hóa trị giá 894.960.000đ (chênh lệch 15.064.500đ), do đó Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh A thanh toán chênh lệch tài sản cho chị Y số tiền 7.532.000đ là có căn cứ, ngoài ra chấp nhận sự tự nguyện của anh A hỗ trợ thêm100.000.000đ để chị Y nuôi cháu H học đại học.Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên cũng không yêu cầu định giá lại tài sản và việc chị Y yêu cầu anh A đưa thêm cho chị 400.000.000đ không được anh A chấp nhận, do đó Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ để sửa bản án sơ thẩm.
[4] Về nội dung kháng cáo của chị Y cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm tố tụng do không cho Luật sư của chị tham gia hỏi bị đơn về hai cháu Nguyễn Thị Như Hằng, sinh năm 2007 và Nguyễn Quang Vinh, sinh năm 2015. Tuy nhiên tại Biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 28/6/2019, trong phần “Hỏi và trả lời tại phiên tòa” thể hiện các đương sự không đề nghị đặt câu hỏi gì (BL174). Việc anh A có con triêng với người phụ nữ khác cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng và chị Y đã làm đơn xin ly hôn. Về quan hệ hôn nhân giữa hai bên đã có hiệu lực và không bên nào kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm không xét.
[5] Về nội dung kháng cáo chị Y cho rằng tại phiên tòa Luật sư có yêu cầu Tòa án áp dụng điểm a, điểm d khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình, nhưng Thẩm phán cho rằng Luật sư không có ý kiến gì là không phù hợp với diễn biến phiên tòa. Xem xét Biên bản phiên tòa sơ thẩm trong phần tranh luận có ghi quan điểm của Luật sư “Đề nghị Tòa án giải quyết chia tài chung của vợ chồng cho chị Y sử dụng và sở hữu căn nhà số 04/71 Nguyễn Văn Trỗi, phương Ngọc Trạo ...” (BL172), tuy nhiên không nêu rõ căn cứ pháp lý tại Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình mà Luật sư đề nghị áp dụng là thiếu sót, Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[6] Về án phí phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần chia tài sản nên chị Y phải nộp án phí phúc thẩm dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình, không chấp nhận kháng cáo của chị Đỗ Thị Y, giữ nguyên bản án số 35/2019/HNGĐ-ST ngày 28/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa về phần chia tài sản.
- Giao cho chị Đỗ Thị Y tiếp tục sở hữu, sử dụng căn nhà ba tầng gắn liền với quyền sử dụng diện tích đất ở 66m2 tại địa chỉ số phường Đông vệ, thành phố Thanh Hóa, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 3093 do UBND thành phố Thanh Hóa cấp ngày 22/12/2003 mang tên anh Nguyễn Thọ A và chị Đỗ Thị Y. Trị giá nhà + đất: 894.960.000đ (Tám trăm chín tư triệu, chín trăm sáu mươi ngàn đồng).
Chị Y được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký thay đổi về chủ sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.
- Giao cho anh Nguyễn Thọ A tiếp tục sở hữu, sử dụng nhà bốn tầng phía trước kết hợp với nhà hai tầng phía sau gắn liền với quyền sử dụng diện tích đất 69,3m2 tại địa chỉ phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa, có giấy “xác nhận về hiện trạng sở hữu nhà ở và sử dụng đất” số 753 ngày 24/7/2002 của UBND thành phố Thanh Hóa cấp cho anh Nguyễn Thọ A và chị Đỗ Thị Y. Trị giá nhà + đất:
902.492.500đ (Chín trăm lẻ hai triệu, bốn trăm chín hai ngàn, năm trăm đồng).
Anh A có trách nhiệm thanh toán chênh lệch tài sản cho chị Y số tiền 7.532.000đ (Bảy triệu năm trăm ba hai ngàn đồng) và thực hiện việc đăng ký thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của Luật đất đai.
- Chấp nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Thọ A hỗ trợ thêm cho chị Y 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) để nuôi cháu Nguyễn Đỗ Huy H học đại học.
- Chị Y được nhận từ anh A số tiền chênh lệch tài sản 7.532.000đ và 100.000.000đ để nuôi cháu H học đại học. Tổng cộng chị được nhận từ anh A số tiền là: 107.532.000đ (Một trăm lẻ bảy triệu năm trăm ba hai ngàn đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ khi chị Y có đơn yêu cầu và được Cơ quan thi hành án ra Quyết định thi hành án, nếu anh A không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì hàng tháng phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
-Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án: Chị Y phải nộp 300.000đ án phí phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo Biên lai thu số AA/2018/0000166 ngày 09/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 49/2019/HNGĐ-PT ngày 06/09/2019 về tranh chấp chia tài sản khi ly hôn
Số hiệu: | 49/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về