TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 484/2021/DS-PT NGÀY 20/05/2021 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHOẺ, DANH DỰ, NHÂN PHẨM BỊ XÂM PHẠM
Trong các ngày 17 tháng 5 và ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 107/DSPT ngày 17/3/2021 về việc “Tranh chấp yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 256/2020/DS-ST ngày 10/09/2020 của Tòa án nhân dân quận Đ (nay là Toà án nhân dân Thành phố Đ), Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1291/2021/QĐPT-DS ngày 26 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 4422/2021/QĐPT-DS ngày 26 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị M, sinh năm 1982; Địa chỉ: 234 Quốc lộ 1K, khu phố 1, phường X, Thàn phố Đ, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1996; Địa chỉ thường trú: Xóm 3 Tiến N, huyện Triệu S, tỉnh H, là người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền số chứng thực 938, quyển số 01/2020- SCT/CK, CĐ lập ngày 28/4/2020 tại Ủy ban nhân dân phường Tân Bình, thành phố D , tỉnh B). – Có mặt
2. Bị đơn: Bà Lê Ngân G, sinh năm 1980; Địa chỉ: 232 Quốc lộ 1K, khu phố 1, phường X, Thành phố Đ, Thành phố Hồ Chí Minh– Có đơn xin vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Văn H – Thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – Có mặt.
3. Người kháng cáo: Bị đơn bà Lê Ngân G.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Nguyên đơn Huỳnh Thị M trình bày: Ngày 15/12/2019, bà Huỳnh Thị M và bà Lê Ngân G có phát sinh mâu thuẫn, dẫn đến xô xát đánh nhau, bà Huỳnh Thị M bị tương tích 4% theo kết luật giám định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Đ và Thông báo không khởi tố vụ án hình sự số 146 ngày 13/4/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Đ. Hành vi của bà Lê Ngân G đã xâm hại đến sức khỏe của bà M. Do vậy, bà Huỳnh Thị M khởi kiện yêu cầu Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc bà Lê Ngân G bồi thường 50 tháng tiền lương cơ sở do nhà nước quy định (01 tháng lương là 1.490.000 đồng) với số tiền yêu cầu là 74.500.000 đồng.
2. Bị đơn Lê Ngân G trình bày: Bà xác định ngày 15/12/2019 giữa bà và bà M có xảy ra sự việc mâu thuẫn. Do bà M có chửi bới xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bà trước mặt con cái và khách hàng nên bà bức xúc chạy sang nhà bà M để hỏi lý do thì bị bà M dùng cán cây lau nhà đánh liên tục vào người bà, xé rách áo bà. Bà cho rằng bà không gây ra bất kỳ tổn hại về sức khoẻ nào cho bà M, ngược lại bà M mới chính là người xâm phạm về uy tín, danh dự, sức khoẻ và tài sản của bà. Do đó bà không đồng ý với to+àn bộ yêu cầu khởi kiện của bà M.
Tại đơn phản tố đề ngày 15/7/2020, bị đơn bà Lê Ngân G yêu cầu bà Huỳnh Thị M bồi thường chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe là 10.000.000 đồng, bồi thường chi phí khắc phục thiệt hại giảm sút do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm là 60.000.000 đồng, bồi thường thiệt hại tinh thần là 80.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại vật chất chiếc áo bị hỏng là 5.000.000 đồng. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 28/7/2020, bị đơn bà Lê Ngân G xác định yêu cầu phản tố chỉ yêu cầu bà Huỳnh Thị M bồi thường chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe là 10.000.000 đồng, bồi thường chi phí khắc phúc thiệt hại giảm sút do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm 60.000.000 đồng, bồi thường thiệt hại tinh thần 80.000.000 đồng. Tổng số tiền yêu cầu 150.000.000 đồng.
Tại bản án số 256/2020/DS-ST ngày 10/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Đ (nay là Toà án nhân dân Thành phố Đ), Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử:
“ 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị M về việc yêu cầu bà Lê Ngân G bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Buộc bà Lê Ngân G bồi thường thường cho bà Huỳnh Thị M số tiền 29.800.000 đồng (hai mươi chín triệu tám trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bà Huỳnh Thị M có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Lê Ngân G không thi hành hoặc chậm thi hành án số tiền nói trền thì hàng tháng bà G còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2. Bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn số tiền yêu cầu bồi thường còn lại là 44.700.000 đồng.
3. Bác toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Ngân G”.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 18/9/2020 bị đơn bà Lê Ngân G có đơn kháng cáo một phần bản án dân sự sơ thẩm số 256/2020/DS-ST ngày 10/9/2020.
Ngày 07/10/2020 nguyên đơn bà Huỳnh Thị M có đơn kháng cáo một phần bản án dân sự sơ thẩm số 256/2020/DS-ST ngày 10/9/2020. Do bà M nộp đơn kháng cáo quá hạn không có lý do chính đáng nên ngày 3/12/2020, Hội đồng xét kháng cáo quá hạn Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định số 56/2020/QĐ-PT không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của bà Huỳnh Thị M.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị đơn không rút kháng cáo, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Bi đơn trình bày nội dung và căn cứ kháng cáo:
- Bản án sơ thẩm buộc bị đơn bồi thường số tiền tổn thất tinh thần cho nguyên đơn bằng 20 tháng lương tối thiểu là không có cơ sở, không công bằng và không tương xứng với những tổn thất tinh thần mà bị đơn phải chịu vì sau vụ xô xát xảy ra, bà M chỉ bị xây xước nhẹ, vẫn làm việc và sinh hoạt bình thường, không ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân.
- Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào những chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để xác định lỗi hoàn toàn thuộc về bị đơn là không có căn cứ; chấp nhận yêu cầu bồi thường của nguyên đơn mà không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là không công bằng, không xem xét toàn diện, thấu đáo vấn đề, bởi vì sau sự việc xảy ra ngày 15/12/2019 thiệt hại về sức khoẻ với bà M là có thật nhưng không có nghĩa là bà G có lỗi hoàn toàn, mâu thuẫn giữa hai bên đã có từ lâu, nguyên nhân dẫn đến xô xát là do trước đó bà M có nhưng lời lẽ xúc phạm bà G dẫn đến bà G phẫn uất và có hành vi sai trái chứ bản thân bà không thể vô ý đánh người. Sau sự việc xảy ra bà G cũng bị tổn thất về sức khoẻ nhưng do nhận thức về hành vi của mình nên bà G không đề nghị giám định, mặt khác bà cũng bị suy sụp về mặt tinh thần trong một thời gian dài nhưng không được hội đồng xét xử xem xét một cách công bằng, khách quan.
Do đó bà kháng cáo đề nghị toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, xem xét bà phải bồi thường tổn thất tinh thần cho bà G bằng 02 tháng lương cơ sở, đồng thời chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Toà cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục, các đương sự được thực hiện đầy đủ về quyền và nghĩa vụ, đơn kháng cáo của đương sự còn trong thời hạn luật định.
- Về nội dung: Căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự có cơ sở xác định ngày 15/12/2019 giữa nguyên đơn và bị đơn có xảy ra cải vã dẫn đến xô xát. Hậu quả là nguyên đơn bà Huỳnh Thị M bị thương tích với tỷ lệ 4%. Xét thấy sự việc xảy ra ngày 15/12/2019 bắt nguồn từ mâu thuẫn của hai bên đương sự, nhưng bà G là người gây ra thương tích cho bà M nên căn cứ theo hướng dẫn tại Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì bà G có trách nhiệm bồi thường một số tiền về tổn thất tinh thần theo yêu cầu của nguyên đơn. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm xét xử mức bồi thường bằng 20 tháng lương cơ sở là chưa hợp lý, vì thiệt hại về sức khoẻ xảy ra cho bà M là không lớn (tỷ lệ thương tích 4%). Tại phiên toà phúc thẩm bị đơn tự nguyện bồi thường số tiền tổn thất tinh thần 10.000.000 đồng là hợp lý.
Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Lê Ngân G, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 256/2020/DS-ST ngày 10/9/2020 của Toà án nhân dân Quận Đ (nay là Thành phố Đ), Thành phố Hồ Chí Minh, ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Lê Ngân G bồi thường cho nguyên đơn bà Huỳnh Thị M số tiền tổn thất tinh thần 10.000.000 đồng; không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Lê Ngân G về việc buộc nguyên đơn bồi thường số tiền tổng cộng 150.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, kết quả tranh luận tại phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về hình thức và thời hạn kháng cáo: Ngày 10/9/2020 Toà án nhân dân Quận Đ (nay là Toà án nhân dân Thành phố Đ) xét xử và ban hành bản án số 256/2020/DS-ST. Ngày 18/9/2020 bị đơn có đơn kháng cáo một phần bản án dân sự sơ thẩm. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 thì kháng cáo của đương sự còn trong hạn luật định và hợp lệ.
[1.2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Toà án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm, giữa hai bên phát sinh quan hệ tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thuộc trường hợp được quy định tại khoản 6 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện bị đơn bà Lê Ngân G đang cư trú trên địa bàn quận Đ, do đó, căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân quận Đ (nay là Toà án nhân dân Thành phố Đ), Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
[2] Về nội dung: Xét đơn kháng cáo một phần bản án dân sự sơ thẩm của bị đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn bồi thường số tiền tổn thất tinh thần bằng 50 tháng lương cơ sở, tương đương 74.500.000 đồng: Căn cứ vào những chứng cứ tài liệu trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự có cơ sở xác định ngày 15/12/2019 giữa nguyên đơn Huỳnh Thị M và bị đơn Lê Ngân G có xảy ra mâu thuẫn dẫn đến việc xô xát. Hậu quả là bà G đã gây thương tích cho bà M với tỷ lệ 4% (theo thông báo kết luận giám định số 748 ngày 16/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận Đ). Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án bà M xác định không yêu cầu bòi thường tiền chi phí thuốc men mà chỉ yêu cầu bà G bồi thường về tổn thất tinh thần nên toà án cấp sơ thẩm chỉ xem xét giải quyết trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng với quy định tại Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì bà G phải chịu trách nhiệm bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà bà M phải gánh chịu khi sức khỏe bị xâm phạm ở mức tối đa không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Tại điểm b tiểu mục 1.5 mục 1 phần II của Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn “Trong mọi trường hợp, khi sức khỏe bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân”.
Xét thấy, căn cứ vào những lời trình bày của các đương sự tại phiên toà có cơ sở xác định nguyên nhân dẫn đến việc xô xát là do hai bên là hàng xóm đã có sự mâu thuẫn cãi vả từ trước. Căn cứ vào lời trình bày của hai bên đương sự và kết quả giám định tỷ lệ thương tích của nguyên đơn có căn cứ để xác định bị đơn là người có lỗi xâm phạm trực tiếp đến sức khoẻ của nguyên đơn nên nguyên đơn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần. Nguyên đơn yêu cầu số tiền bồi thường là 50 tháng lương cơ sở tương đương 74.500.000 đồng là chưa hợp lý so với tỷ lệ thương tật 4% vì mức bồi thường 50 tháng lương cơ sở là khoản tiền tối đa pháp luật quy định mà người bị tổn hại về sức khoẻ được bồi thường. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm xét xử buộc bà G phải bồi thường cho bà M phần tổn thất về tinh thần 20 tháng lương cơ sở với số tiền 29.800.000 đồng là chưa xem xét nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn của hai bên và không phù hợp với mức độ tổn hại về sức khoẻ và tinh thần mà nguyên đơn phải chịu, vì theo lời trình bày của nguyên đơn tại phiên toà phúc thẩm, mâu thuẫn của hai bên bắt nguồn từ trước. Sau vụ xô xát xảy ra vào ngày 15/12/2019, nguyên đơn vẫn làm công việc tại nhà bình thường, các vết trầy xước trên mắt, cằm và mũi của nguyên đơn không ảnh hưởng lớn đến nghề nghiệp, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình, cá nhân và hiện nay vết thương này cũng đã lành lặn, không để lại sẹo, không ảnh hưởng đến thẩm mỹ.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn vắng mặt nhưng có gửi văn bản đề nghị tự nguyện bồi thường cho nguyên đơn số tiền đền bù tổn thất tinh thần là 10.000.000 đồng. Theo Nghị Định 38/2019/NĐ-CP ngày 09/5/2019 của Chính Phủ quy định mức lương cơ sở áp dụng hiện nay là 1.490.000 đồng. Mức bồi thường 10.000.000 đồng mà bị đơn tự nguyện đưa ra tương đương gần 7 tháng lương cơ sở. Hội đồng xét xử căn cứ vào những chứng cứ có trong hồ sơ và những phân tích ở trên, nhận thấy mức bồi thường này là hợp tình, hợp lý.
Căn cứ vào những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần sửa bản án sơ thẩm về mức bồi thường tổn thất về tinh thần là 10.000.000 đồng.
[2.2]. Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn về việc Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, bị đơn cho rằng sự việc xảy ra mâu thuẫn với bà M, dẫn đến xô xát đánh nhau vào ngày 15/12/2019 đã gây ra cho bị đơn những tổn hại về sức khoẻ và tổn thất tinh thần. Tuy nhiên, bà Lê Ngân G không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh những thiệt hại đó, không chứng minh được thương tích, thương tật trên thân thể do bà Huỳnh Thị M gây ra, cũng như không chứng minh được hành vi bị bà M xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 và khoản 1 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện phải có trách nhiệm và nghĩa vụ giao nộp, tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Do vậy, Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là có cơ sở. Tại phiên toà phúc thẩm, bà G cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu phản tố của mình. Do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của nguyên đơn.
[2.3] Từ những phân tích trên và xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bồi thường cho nguyên đơn số tiền 10.000.000 đồng. Do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 256/2000/DSST ngày 10/9/2020 của Toà án nhân dân Quận Đ (nay là Toà án nhân dân Thành phố Đ), Thành phố Hồ Chí Minh như đã phân tích ở trên.
[3] Về án phí: Bà M và bà G được miễn án phí theo theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn bà Lê Ngân G.
2. Sửa một phần bản án Dân sự sơ thẩm số 256/2020/DS-ST ngày 10/9/2020 của Toà án nhân dân Quận Đ (nay là Toà án nhân dân Thành phố Đ), Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
2.1. Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn bà Lê Ngân G về việc bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm cho bà Huỳnh Thị M số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng.
2.2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị M yêu cầu bà Lê Ngân G bồi thường số tiền 64.500.000 (sáu mươi tư triệu năm trăm ngàn) đồng.
Kể từ ngày bà Huỳnh Thị M có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Lê Ngân G không thi hành hoặc chậm thi hành án số tiền nói trên thì hàng tháng bà G còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
2.3. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn bà Lê Ngân G về việc buộc nguyên đơn bồi thường số tiền tổng cộng 150.000.000 đồng.
3. Về án phí: Đương sự được miễn nộp toàn bộ án phí Dân sự sơ thẩm và án phí Dân sự phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 484/2021/DS-PT ngày 20/05/2021 về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm
Số hiệu: | 484/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 20/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về