Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 48/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 14/8/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 183/2020/TLST-HNGĐ ngày 04/6/2020 về việc tranh chấp Hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2020/QĐST- HNGĐ ngày 14/7/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 59/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29/7/2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 2000 (vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: thôn 8, xã A, huyện L, tỉnh B Chỗ ở: thôn K, xã M, huyện V, tỉnh B

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đình S, sinh năm 1997 (vắng mặt) Địa chỉ: thôn 8, xã A, huyện L, tỉnh B

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Nguyễn Đình S vào ngày 02/02/2018, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận. Đến tháng 6/2019 vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, thường xuyên to tiếng, cãi chửi nhau do bất đồng quan điểm sống, anh S thường ham chơi không chịu làm ăn và nghiện ma túy heroin. Chị đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh S không nghe. Khoảng tháng 6/2019 chị đã có đơn khởi kiện xin ly hôn đối với anh S, nhưng do anh S cam kết xin về đoàn tụ và không nghiện ma túy nữa nên chị đã rút đơn khởi kiện. Sau khi về chung sống, anh S vẫn chứng nào tật nấy, không sửa đổi bản thân mà còn nghiện ma túy nhiều hơn. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ tại thôn K, M, V, B để ở và không quay về chung sống cùng với anh S nữa. Vợ chồng sống ly thân kể từ tháng 4/2020 cho đến nay không quan tâm, chăm sóc gì cho nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống cùng nhau được nữa nên chị xin được ly hôn với anh S.

Về con chung: vợ chồng chị có 01 con chung là Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 23/6/2018. Hiện nay con chung đang ở cùng với chị, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường. Ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng chị không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Đình S đã được Tòa án giao thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải hợp lệ. Nhưng anh S không có văn bản trình bày ý kiến đối với các yêu cầu của nguyên đơn và vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.

Tòa án đã tiến hành thủ tục hòa giải nhưng anh S đều vắng mặt mà không có lý do nên các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương nơi anh S cư trú thấy: Trong quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng anh S, chị N hòa thuận, hạnh phúc. Đến khoảng tháng 6/2019 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng, anh S có lần còn uống thuốc diệt cỏ nhưng được cứu chữa kịp thời nên không làm sao. Chị N đã về nhà bố mẹ đẻ ở kể từ khoảng giữa năm 2019 cho đến nay và không quay về chung sống cùng với anh S nữa. Còn anh S thì hiện vẫn đang sinh sống ở thôn 8, A, L, B.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị N vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn là anh Nguyễn Đình S vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tham gia phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật. Bị đơn chưa thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật.

- Nội dung giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Đình S.

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 23/6/2018.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị N, anh S không có nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị N cùng các tài liệu nộp Km theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện L. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện L đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Tại phiên tòa nguyên đơn là chị N vắng mặt và đã có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh S vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy HĐXX tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị N, anh S theo quy định tại khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đình S có đăng ký kết hôn vào ngày 02/02/2018 tại UBND xã A, huyện L, tỉnh B. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị N, anh S là hợp pháp.

Về tình trạng hôn nhân, Hội đồng xét xử xét thấy rằng: Lời khai của chị N phù hợp với biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương đều xác định vợ chồng chị N, anh S có sảy ra nhiều mâu thuẫn trầm trọng to tiếng, cãi chửi nhau và đã có khoảng thời gian sống ly thân từ tháng 04/2020 cho đến nay không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Nay chị N xin ly hôn, tuy anh S không có ý kiến đối với yêu cầu của chị N. Nhưng Hội đồng xét xử xét thấy rằng, trong thời gian sống chung vợ chồng không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ về nhân thân, không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ mọi việc, không giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình, mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến vợ chồng sống ly thân từ tháng 04/2020 cho đến nay không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Việc này trái với các quy định tại các điều 19, 21 luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Từ những phân tích trên, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 8 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về căn cứ cho ly hôn thì thấy rằng: Tình trạng của vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh S.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị N, anh S có một con chung là Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 23/6/2018. Ly hôn, chị N xin được nuôi dưỡng con chung. Anh S không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của chị N. Tuy nhiên, do cháu Thư hiện nay còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cháu Thư cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc để đảm bảo cho cháu Thư phát triển tốt về mọi mặt là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở chị anh S thực hiện quyền này.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N, anh S không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh S có quyền làm đơn đề nghị giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc vụ án yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị N, anh S không có nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Đình S.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 23/6/2018.

Sau khi ly hôn anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở anh S thực hiện quyền này.

Anh S có quyền làm đơn đề nghị giải quyết vụ án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc vụ án yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị N, anh S không có nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0002358 ngày 04/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh B. Xác nhận chị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 48/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:48/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;