Bản án 471/2023/DS-PT về yêu cầu tuyên bố hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 471/2023/DS-PT NGÀY 21/09/2023 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG CHO NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT VÔ HIỆU

ngày 21 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 249/2023/TLPT-DS ngày 13/7/2023 về việc “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng cho – nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2023/DS-ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 328/2023/QĐ-PT ngày 13/7/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 428/QĐPT-HPT ngày 12/9/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Cụ Ngô Thị Kh; sinh năm: 1931; địa chỉ tại: Số 178  K, phường L, quận K, Thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Kim H; sinh năm: 1966; địa chỉ: 106 Z10 Tập thể B, ngõ 1 Q, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội (theo Giấy ủy quyền lập ngày 04/01/2021 tại Văn phòng công chứng K); có mặt tại phiên tòa.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là Luật sư Phạm Thị H – Công ty Luật TNHH H và cộng sự - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội .

Địa chỉ liên hệ: Tòa nhà XQF6+V9J, số X, phố Tố Hữu, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội; Luật sư H có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Ông Trần Đức Ch; sinh năm: 1966; địa chỉ tại: Số 9, ngõ 37 phố T, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Phòng Công chứng số X- Thành phố Hà Nội Địa chỉ: Số 310 Tr, phường L, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thanh Ph - Công chứng viên Phòng Công chứng số X- Thành phố Hà Nội (theo Giấy ủy quyền số 07/GUQ- CCS1 ngày 21/5/2021); có đơn xin vắng mặt.

3.2. Bà Trần Thanh H1; sinh năm: 1969; địa chỉ tại: 178  K, phường L, quận K, Thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Kim H; sinh năm: 1966; địa chỉ tại: 106 Z10 Tập thể B, ngõ 1 Q, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội (theo Giấy ủy quyền lập ngày 25/4/2022 tại Văn phòng công chứng K); có mặt tại phiên tòa.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là Luật sư Phạm Thị H – Công ty Luật TNHH H và cộng sự - Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội .

Địa chỉ liên hệ: Tòa nhà XQF6+V9J, số X, phố Tố Hữu, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội; Luật sư H có mặt tại phiên tòa.

3.3. Bà Đinh Thị N; sinh năm: 1974; địa chỉ tại: Số 16, ngõ 7 Tây Kết, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Kim A; sinh năm: 1995; địa chỉ liên hệ: Số 17 phố Y, phường Tr, quận Đ, Thành phố Hà Nội (Theo giấy ủy quyền số công chứng 001646, quyển số 02/2023TP/CC – SCC/HĐGD ngày 21/7/2023 lập tại Văn phòng công chứng Phạm Thu H2 – Thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

3. 4. Ủy ban nhân dân quận K Trụ sở: 124 phố Hàng Trống, quận K, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn A Q- Phó Chủ tịch UBND quận K. Theo văn bản ủy quyền số 307/QĐ-UBND ngày 17/02/2023; vắng mặt tại phiên tòa.

4. Người kháng cáo, kháng nghị: Do có kháng cáo của bà Ngô Thị Kh là nguyên đơn; bà Trần Thanh H1 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:

* Theo đơn khởi kiện và ý kiến trình bày của đại diện nguyên đơn tại Tòa án như sau:

Cụ Ngô Thị Kh có chồng là cụ Trần Đức T (sinh năm 1930, mất năm 1971). Hai cụ có 06 người con gồm:

- Ông Trần Đức T, sinh năm 1956 hiện ở 106 Z10 Tập thể B, ngõ 1 Q, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

- Ông Trần Đức Đ, sinh năm 1958, địa chỉ số 40 ngõ 302, K, Hà Nội (mất năm 2018) - Bà Trần Thị Thanh H, sinh năm 1960 (mất năm 1982) - Ông Trần Đức Th, sinh năm 1964, hiện ở ngõ 62, C, Đ, Hà Nội.

- Ông Trần Đức Ch, sinh năm 1966, hiện ở Số 9, ngõ 37 phố Tây Kết, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội - Bà Trần Thanh H1, sinh năm 1969, hiện ở tại 178  K, K, Hà Nội.

Ngôi nhà 178  K là tài sản của bố mẹ cụ Kh để lại cho cụ Kh, năm 2003 cụ Kh đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đứng tên cụ Ngô Thị Kh Năm 1988, cụ Kh có mổ mắt bên phải tại Bệnh viện Đ, do bác sỹ L mổ. Ca mổ này không thành công nên mắt phải cụ Kh mất thị lực hoàn toàn.

Năm 1990, cụ Kh khám tại bệnh viện Mắt TƯ bác sỹ Điền khám và kết luận mắt phải cụ Kh bị bong võng mạc.

Năm 1993, cụ Kh mổ mắt trái tại bệnh Viện mắt TƯ do bác sỹ Tôn Kim Thanh- chủ nhiệm khoa cùng với chuyên gia Úc mổ mắt trái tình trạng có nhìn thấy nhưng không rõ.

ngày 04/6/2021, cụ Kh đi khám mắt tại bệnh viện mắt TƯ, bệnh viện đã chuẩn đoán:

MT: đã đặt IOL; MP: Mù một mắt; Đã mổ BVM.

MP dính bít đồng tử.KQ SA: Bong võng mạc phía trên trong. MT: thoái hóa hắc võng mạc.KQ SA không bong võng mạc Hiện nay ở tại 178  K có cụ Kh và bà Trần Thanh H1 (con gái cụ Kh), ông Nguyễn Chí Dũng (chồng bà H1) ngoài ra không có ai ở tại đây.

Đầu năm 2013, cụ Kh có ra Phòng công chứng số X Thành phố Hà Nội, tại đây cụ khuê có ký vào Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (đã xuất trình cho Tòa án) trước khi ký cụ Kh không đọc vì mắt cụ Kh bị đục thủy tinh thể không nhìn được và vì tin tưởng ông Ch nên không đọc, và cũng không ai đọc cho cụ Kh nghe. Mục đích cụ Kh ký vào văn bản này là muốn giao cho ông Ch trông nom, thờ phụng các cụ bên ngoại chứ không phải là để tặng cho ông Ch. Trước khi làm thủ tục tại phòng công chứng cụ Kh có nói với ông Ch là chỉ giao cho ông Ch trông nom nhà cửa và nói riêng với cô con gái là Trần Thanh H1 về ý định giao cho Ch trông nom ngôi nhà này chứ cụ Kh không nói là tặng cho nhà này cho ông Ch.

Cuối năm 2018, khi ông Ch tách sổ cho bà H1 thì cụ Kh phát hiện ra là ông Ch đã lừa cụ Kh để lập hợp đồng tặng cho nhà cho ông Ch. Cụ Kh có yêu cầu ông Ch và bà H1 sang tên nhà đất đứng tên cụ Kh. Tuy bà H1 đồng ý sang tên nhà đất cho ông Ch để ông Ch sang lại tên cho cụ Kh nhưng sau khi sang tên ông Ch thì ông Ch không sang lại tên cho cụ Kh.

Cụ Kh khẳng định, cụ Kh không hề có ý định tặng cho ông Ch ngôi nhà này. Lý do cụ Kh ký vào văn bản Hợp đồng cho tặng tại phòng công chứng vì cụ Kh nghĩ chỉ là hợp đồng giao cho ông Ch trông nom nhà cửa và vì cụ Kh tin tưởng ông Ch, mặt khác mắt cụ Kh kém không đọc được.

Nguyên đơn yêu cầu khởi kiện cụ thể:

+ Yêu cầu tuyên bố vô hiệu 03 hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã lập tại Phòng công chứng số X Thành phố Hà Nội.

+ Hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được tách, sang tên đối với tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 178  K, K, Hà Nội.

+ Khôi phục lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Ngô Thị Kh.

Lý do yêu cầu khởi kiện tuyên bố vô hiệu là do cụ Kh bị nhầm lẫn và bị lừa dối và không đúng ý nguyện của cụ Kh theo Điều 131, 132 Bộ luật dân sự 2005. Trước khi cụ Kh và ông Ch ra làm thủ tục tại phòng công chứng giữa cụ Kh và ông Ch có sự thỏa thuận là chỉ giao nhà 178  K cho ông Ch có trách nhiệm trông nom và thờ phụng các cụ bên ngoại và không được bán, thể hiện tại:

+ Bản tự khai ngày 11/6/2021 do ông Trịnh Thanh H là người đại theo ủy quyền của ông Ch, theo đó ông H Khai “bởi vì mẹ tôi biết tôi là người duy nhất trong số các con sẽ không bán căn nhà mà giữ lại là kỷ vật của mẹ”.

+ Bản tự khai của bà Trần Thanh H1 ngày 30/9/2022, ông Nguyễn Chí Dũng ngày 30/9/2022 đều xác định cụ Kh chỉ giao nhà cho anh Ch trông nom, thờ phụng bên ngoại.

+ Cụ Kh không đến phòng công chứng cung cấp tài liệu, hỏi thủ tục mà chỉ có ông Ch đến phòng công chứng làm các thủ tục, khi cụ Kh ra phòng công chứng thì được yêu cầu ký vào hợp đồng và cụ khuê không đọc Hợp đồng vì mắt cụ Kh bị đục thủy tinh thể không thể tự đọc.

+ Việc xin xác nhận tình trạng hôn nhân tại UBND phường L là do ông Ch nhờ bà H1 đi xin xác nhận, cụ Kh chưa bao giờ ủy quyền hay nhờ bà H1 đi xin xác nhận tình trạng hôn nhân. Đến nay, khi ra Tòa cụ Kh mới biết là có Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.(Trong bản tự khai ngày 30/9/2022 của bà H1, bà H1 đã xác nhận là ông Ch nhờ bà H1 đi xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho cụ Kh).

+ Về Phiếu yêu cầu công chứng: Không được lập ngày 23/01/2013, do cụ Kh đã trên 80 tuổi nên không thể tự viết mà cần có người hướng dẫn. Việc cụ Kh viết vào phiếu yêu cầu công chứng là do phòng công chứng hướng dẫn. Bản thân cụ Kh không tự viết vào Phiếu yêu cầu công chứng là “Cho tặng ông Ch”. Trong Phiếu yêu cầu công chứng về phần điều kiện tặng cho cụ Kh không viết nội dung gì.

+ Khi cụ Kh ký hợp đồng tại phòng công chứng cụ Kh không được giải thích quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trước khi ký hợp đồng, không ai đọc cho nghe. Do mắt một bên bị mù, một bên nhìn rất mờ nên cụ Kh không thể đọc được hợp đồng. Việc cụ Kh viết vào Hợp đồng “Tôi đã đọc và đồng ý” là do có người hướng dẫn, chứ bản thân cụ Kh không đọc Hợp đồng.

+ Sau khi ký Hợp đồng cụ Kh không hề được cầm bản Hợp đồng nào, toàn bộ Hợp đồng do ông Ch cầm.

+ Từ sau khi có Hợp đồng tặng cho cụ Kh vẫn ở tại 178  K cùng con gái là Trần Thanh H1 và vẫn là người đóng tiền thuế sử dụng đất đứng tên cụ Kh. Sau khi tặng cho đến nay cụ Kh chưa hề bàn giao nhà cho ông Ch và thực tế ông Ch không ở tại 178  K cho đến nay.

+ Cuối năm 2018, cụ Kh mới biết là nhà 178  K đã tặng cho ông Ch và ông Ch lại tặng cho bà H1, bà H1 tặng cho lại ông Ch. Từ thời điểm này cụ Kh nhiều lần yêu cầu ông Ch trả lại nhà nhưng ông Ch không trả mặc dù ông Ch có hứa trả lại nhà (có video gửi Tòa án). Sau khi ông Ch đưa người đến thẩm định nhà, cụ Kh có yêu cầu ông Ch về họp nhưng ông Ch không đến nên buộc cụ Kh phải làm đơn khởi kiện.

+ Việc cụ Kh ký hợp đồng tặng cho nhà trong gia đình chỉ có bà H1, ông Ch biết.

+ Ông Ch khai đã đưa 7,2 tỷ đồng cho bà H1 (khi bà H1 tặng cho lại nhà cho ông Ch) tuy nhiên không giao nộp được các tài liệu chứng cứ về việc giao nhận tiền và tại Tòa án cả ông Ch, bà N đều không giao nộp tài liệu liên quan đến việc giao tiền và không có yêu cầu gì về số tiền 7,2 tỷ thể hiện bà N không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan đến việc giải quyết vụ án này nên đề nghị không đưa bà N vào tham gia tố tụng với tư các là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

+ Việc ông Ch tặng cho bà H1, bà H1 tặng cho lại ông Ch là việc cá nhân giữa ông Ch và bà H1 không liên quan đến việc cụ Kh chỉ giao cho ông Ch quản lý nhà chứ không phải tặng cho nhà ông Ch để anh Ch lại tặng cho nhà cho bà H1.

* Tại Tòa án, bị đơn và người đại diện cho bị đơn trình bày:

Về nguồn gốc thửa đất và nhà tại 178  K là của ông bà ngoại để lại cho mẹ ông Ch. Năm 2003, Mẹ ông Ch có kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Ngô Thị Kh.

Trước khi có vụ kiện này, trong nhiều năm lao động và học tập ở nước ngoài đến năm 1995 ông Ch về nước và có công việc ổn định, thu nhập tốt, ông Ch đã gửi mẹ phần lớn thu nhập, chính vì vậy khi anh trai mua nhà riêng mẹ ông Ch đã không phải bán nhà hay đi vay để anh chị em có sự hỗ trợ tạo dựng nhà cửa riêng mình, các anh chị em cũng lần lượt có nhà riêng và không còn cư trú tại 178  K.

Từ khi ông Ch về nước sinh sống tại nhà 178  K, đến năm 2006- 2007 ông Ch đã bỏ tiền ra sửa chữa ngôi nhà và lấy vợ sinh con tại căn nhà này. Sau này, do công việc kinh doanh ông Ch có chuyển ra số 9 ngõ 37 Tây Kết, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội nhưng hộ khẩu thường trú vẫn tại nhà 178  K, địa chỉ đăng ký kinh doanh của công ty gia đình vẫn đặt tại đây.

Chính vì sự yêu thương 2 mẹ con dành cho nhau và cho gia đình và sự tin tưởng tuyệt đối ông Ch là người giữ gìn tài sản của gia đình nên vào năm 2013, mẹ ông Ch tặng cho vô điều kiện ông Ch toàn bộ nhà đất tại 178  K, sau đó cũng trong năm này theo ý chí mẹ ông Ch, ông Ch đã tách 30m2 tặng cho em gái ruột là Trần Thanh H1. Việc tặng cho được thực hiện tự nguyện, hoàn toàn do mẹ ông Ch định đoạt, trong trạng thái tinh thần minh mẫn tỉnh táo, không ai lừa dối hay ép buộc, tại phòng công chứng, trước mặt công chứng viên và được đăng ký biến động và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Năm 2018 em gái Trần Thanh H1 lập hợp đồng công chứng tặng cho lại thửa đất cho ông Ch cũng theo ý chí nguyện vọng của chính mẹ ông Ch và em gái ruột. Cả hai lần đều thực hiện tại phòng công chứng số X Hà Nội.

Cả 3 lần tặng cho bao gồm 1 lần cụ Kh sang tên, 2 lần sang tên giữa bà H1 và ông Ch đều do cụ Kh và bà H1 sắp xếp, do đặc thù công việc của ông Ch và vợ ông Ch đều rất bận nên không có nhiều thời gian thu xếp giải quyết các công việc giấy tờ. Một trong các lần khi đang đi làm thì bà H1 điện ông Ch về ký thủ tục tại phòng công chứng, không có chuyện ông Ch sắp xếp hay lừa dối để thực hiện việc tặng cho.

Hiện tại ông Ch đã làm thủ tục đăng ký biến động và toàn bộ căn nhà và quyền sử dụng thửa đất thuộc quyền sở hữu của ông Ch.

Bản thân ông Ch, mẹ ông Ch và các anh chị em trong gia đình không hề có bất kỳ mâu thuẫn nào, việc tặng cho ngôi nhà mà mẹ ông Ch thực hiện hoàn toàn là mong muốn chính đáng của mẹ ông Ch lúc còn minh mẫn, bởi vì mẹ ông Ch biết ông Ch là người duy nhất trong số các con sẽ không bán căn nhà mà giữ lại là kỷ vật của mẹ.

Khi ông Ch được đọc đơn kiện của mẹ, ông Ch rất sốc bởi vì việc tặng cho ngôi nhà hoàn toàn do ý chí của mẹ ông Ch, việc tách cho em gái Trần Thanh H1 cũng làm theo ý chí của mẹ ông Ch và em gái, sau này việc trả lại bằng cách tặng cho giữa bà H1 và ông Ch cũng hoàn toàn do mẹ và em gái định đoạt. Khi ông Ch đang đi làm thì được mẹ và em điện về để ký công chứng sang tên, chi tiết này khẳng định ông Ch không can thiệp hay cưỡng ép hay lừa dối để mẹ và em gái ký tên tặng cho như trong đơn kiện nại ra.

Những lời lẽ trong đơn kiện khẳng định không thể do mẹ ông Ch nghĩ ra, có bàn tay hoặc sự giả mạo để dựng lên chuyện ông Ch lừa dối mẹ tặng cho căn nhà và các câu chuyện về đối xử với mẹ như trong đơn, hàng xóm những người xung quanh, họ hàng và bạn bè đều biết cá nhân ông Ch là người như thế nào, bản chất vụ việc ra sao.

Trong quá trình sử dụng, đã có lần một trong các người con của mẹ ông Ch đèo mẹ ông Ch đến nhà ông Ch tại ra số 9 ngõ 37 Tây Kết, Phường Đ, Quận Hai Bà Trưng Thành phố Hà Nội để yêu cầu ông Ch ký thỏa thuận hoa hồng môi giới cho bên bán nhà 178  K, khi ông Ch hỏi mẹ “sao mẹ lại bảo con ký cái giấy này”, mẹ ông Ch mới ngỡ ngàng.

Về các hóa đơn tiền sử dụng đất, cùng hóa đơn tiền điện thoại các loại chứng từ cần thanh toán đều gửi về nhà 178  K sau đó cụ Kh hoặc em gái ông Ch đóng rồi đem ra số 9 ngõ 37 Tây Kết, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội, ông Ch hoặc vợ ông Ch trực tiếp trả.

Từ những trình bày trên đây của ông Trần Đức Ch về nội tình, bản chất của sự việc một lần nữa bị đơn khẳng định:

- Việc tặng cho nhà đất tại 178  K, hoàn toàn tự nguyện tặng cho không điều kiện, do ý chí của cụ Ngô Thị Kh định đoạt, không có bất kỳ sự can thiệp hay cưỡng ép nào.

- Đề nghị Tòa bác yêu cầu của nguyên đơn về yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng số công chứng 488/13 quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD của phòng công chứng số X ngày 23/01/2013 lý do hết thời hiệu.

- Đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn liên quan đến yêu cầu tuyên hủy giao dịch giữa ông Ch và bà H1, lý do hết thời hiệu và không vi phạm điều cấm của pháp luật, không liên quan đến nguyên đơn.

- Công nhận toàn bộ quyền và sở hữu hợp pháp quyền sử đụng đất và sở hữu nhà của ông Trần Đức Ch với 02 thửa đất và căn nhà tại 178  K.

Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì việc nguyên đơn tặng cho nhà cho bị đơn thực hiện đúng thủ tục công chứng, đúng pháp luật, thể hiện sự tự nguyện tặng cho. Sự tự nguyện của cụ Kh thể hiện cụ Kh tự viết Giấy đề nghị công chứng, bà H1 (con cụ Kh) giúp cụ Kh làm thủ tục tặng cho bằng việc bà H1 xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của cụ Kh.

+ Việc bà N đưa tiền cho bà H1 là có thật, tuy nhiên vì là chị em trong gia đình nên không lập giấy giao nhận tiền. Nay ông Ch, bà N không có yêu cầu gì về số tiền 7,2 tỷ đồng đối với bà H1.

* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thanh H1 trình bày:

Cuối năm 2012, cụ Kh có nói chuyện với bà H1 là do sức khỏe yếu, việc trông nom thờ phụng các cụ bên ngoại tại 178  K cụ Kh sẽ giao cho ông Ch (việc này cụ Kh đã nói chuyện với ông Ch trước khi nói chuyện với bà H1). Đầu tháng 12/2012, ông Ch có nói chuyện với bà H1 là cụ Kh có ý định giao cho ông Ch trông nom thờ phụng các cụ bên ngoại tại 178  K. Ông Ch có nhờ bà H1 đến Phòng công chứng số X- TP Hà Nội để hỏi thủ tục. Tại Phòng Công chứng bà H1 đã trình bày nguyện vọng của cụ Kh là muốn giao cho anh Ch trông nom thờ phụng tại 178  K và nhờ bà Ph hướng dẫn thủ tục. Bà Ph có hướng dẫn bà H1 các giấy tờ, thủ tục phải chuẩn bị. Trong quá trình ông Ch làm thủ tục, ông Ch có nhờ bà H1 ra UBND phường L để làm Giấy tờ xác nhận tình trạng hôn nhân của cụ Kh. Sau khi nhận được giấy tờ bà H1 đã đưa cho ông Ch. Việc bà H1 đi hỏi thủ tục ở Phòng công chứng, đi xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân tại phường L bà H1 không nói với cụ Kh.

Mọi thủ tục giữa ông Ch và cụ Kh tại Phòng công chứng bà H1 không chứng kiến. Đến khi làm thủ tục xong thì ông Ch gọi bà H1 đến đưa cụ Kh về. Trong khi chờ đón cụ Kh, bà H1 có nghe cụ Kh nói với Công chứng viên là cụ Kh chỉ giao nhà cho ông Ch trông nom, thờ phụng, không được bán. Khi bà H1 đưa cụ Kh về bà H1 không thấy cụ Kh cầm bất kỳ giấy tờ gì. Bà H1 khẳng định cụ Kh không được Phòng công chứng cũng như ông Ch giao cho giữ bất kỳ văn bản nào mà cụ Kh đã ký tại Phòng Công chứng.

Đến cuối tháng 8/2013, sau khi phát hiện nhà 178  K không đứng tên cụ Kh mà đứng tên ông Ch, bà H1 có gặp và nói chuyện với ông Ch, ông Ch có nói sẽ tách 30m2 nhà 178  K cho bà H1 để bà H1 yên tâm trông nom cụ Kh.

Đến năm 2018, cụ Kh mới phát hiện ông Ch đã làm sai ý nguyện của cụ Kh nên đã đòi ông Ch trả lại Nhà. Bà H1 có gặp ông Ch có thỏa thuận với ông Ch là hai anh em nên trả lại nhà cho cụ Kh. Ông Ch đồng ý nên bà H1 đã trả lại 30m2 cho ông Ch để ông Ch trả lại nhà cho cụ Kh. Nhưng sau đó ông Ch không thực hiện trả nhà cho cụ Kh.

Nhiều lần bà H1 nhắn tin cho ông Ch với mục đích ông Ch suy nghĩ lại trả lại nhà cho cụ Kh nhưng ông Ch không trả lời.

Đến ngày 20/02/2020, ông Ch có đến gặp cụ Kh. Cụ Kh đã đòi ông Ch giấy tờ nhà và ông Ch hứa cuối năm trả lại cho cụ Kh, nhưng ông Ch không thực hiện mà ngày 28/12/2020 ông Ch đã đưa hai người đến thẩm định giá và chụp ảnh, đo đạc toàn bộ nhà 178  K. ngày 01/01/2021, cụ Kh đã quyết định họp gia đình về vấn đề nhà 178  K vào ngày 02/01/2021 nhưng ông Ch không đến mặc dù bà H1 có nhắn tin và gọi điện cho ông Ch để thông báo cho ông Ch biết. ngày 04/01/2021, cụ Kh đã làm đơn khởi kiện ông Ch đề nghị Tòa án tuyên các hợp đồng cho- nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà vô hiệu.

Bà H1 khẳng định cụ Kh chưa bao giờ có ý định tặng cho ngôi nhà 178  K cho ông Ch mà chỉ giao cho ông Ch quyền trông nom ngôi nhà này và bà H1 không hề nhận tiền của ông Ch như ông Ch đã trình bày. Vào tháng 8 năm 2020, tại nhà 178  K có bà H1, ông Ch, ông Th (anh trai bà H1) và cụ Kh có ngồi nói chuyện về ngôi nhà 178  K theo đó ông Ch đã đồng ý với cụ Kh là cuối năm trả lại tên sổ đỏ cho cụ Kh để cụ Kh quyết định. Tuy nhiên, sau này ông Ch không thực hiện. Sau đó, ông Ch có đến nói chuyện và thách thức cụ Kh. Nay bà H1 đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Ch phải sang tên sổ đỏ cho cụ Kh.

* Bà Đinh Thị N trình bày tại Tòa án như sau:

Bà N kết hôn với ông Trần Đức Ch từ năm 2007, sau khi kết hôn vợ chồng bà về ở tại 178  K là nhà của mẹ ông Ch. Trước khi cưới ông Ch bỏ tiền sửa chữa cải tạo làm lại trần, làm nhà vệ sinh, cải tạo lại toàn bộ.

Năm 2013, khi đó bà N đang ở Mỹ sinh con tháng 5/2013 bà N mới về nên việc mẹ chồng bà tặng cho chồng bà nhà 178  K bà N chỉ biết qua ông Ch kể lại (mẹ chồng bà chỉ tặng cho riêng chồng bà). Cùng năm 2013 chồng bà lại chuyển lại cho bà H1 (em chồng bà) 30 m2 nhà đất tại 178  K. Năm 2018, do bà H1 cần tiền trong kinh doanh nên có đặt vấn đề với ông Ch là bán lại 30m2 nhà cho ông Ch. Bà H1 được tư vấn khi mua bán thì người bán phải nộp 2% thuế vì vậy ông Ch và bà H1 thống nhất làm hợp đồng tặng cho vì chứng minh được bà H1 và ông Ch là anh em ruột. Thực tế bà H1 bán lại phần diện tích này với giá là 7.200.000.000 đồng (hai bên không lập hợp đồng mua bán). Thời gian mua bán cùng với thời gian làm hợp đồng tặng cho tại phòng công chứng. Bà N là người trực tiếp thanh toán tiền cho bà H1. Việc thanh toán tiền bà N trực tiếp mang tiền mặt đến 178  K trả cho bà H1 (Việc giao nhận tiền hai bên không lập biên bản). Khi đó khoảng tháng 8/2018, khi bà N giao tiền vào buổi chiều cuối tháng 8/2018 (không nhớ ngày cụ thể). Bà H1 chủ động hẹn gặp ông Ch ở phòng công chứng để làm thủ tục tặng cho.

Tại thời điểm này tại 178  K có cụ Kh và bà H1 (em gái ông Ch) ở ngoài ra không có ai ở tại đây.

Trước khi về làm dâu bà N có nghe nói mắt mẹ chồng bà kém nhưng đã thay thủy tinh thể hiện nay mẹ chồng bà vẫn đọc báo bình thường.

Tại Tòa án bà Ngô Thị Thu Th là đại diện theo ủy quyền của bà N trình bày: Việc bà N đưa tiền cho bà H1 là có thật, tuy nhiên vì là chị em trong gia đình nên không lập giấy giao nhận tiền. Nay ông Ch bà N không có yêu cầu gì về số tiền 7,2 tỷ đồng đối với bà H1.

* Tại Tòa án, bà Lê Thanh Ph đại diện theo ủy quyền của Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội trình bày:

ngày 23/01/2013, Phòng Công chứng số X đã chứng nhận bản Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 488.13, quyển số X TP/CC-SCC/HĐGD, do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng chứng nhận nêu trên được giao kết giữa bên cho là cụ Ngô Thị Kh, sinh năm 1931, bên nhận là ông Trần Đức Ch, sinh năm 1966 (ông Ch là con đẻ của cụ Kh). Tài sản cho nhận là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K, phường L, quận K, Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của cụ Ngô Thị Kh theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003.

ngày 03/9/2013, Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội đã chứng nhận Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5057.13, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng cho - nhận được giao kết giữa bên cho là ông Trần Đức Ch, bên nhận là bà Trần Thanh H1 (ông Ch là anh ruột bà H1). Tài sản cho nhận là một phần quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số X78  K thuộc quyền sử dụng và sở hữu hợp pháp của ông Trần Đức Ch theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số X0105130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003, đăng ký sang tên cho ông Trần Đức Ch ngày 26/02/2013.

ngày 06/9/2018, Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội đã chứng nhận Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5793.18, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng cho - nhận được giao kết giữa bên cho là bà Trần Thanh H1, bên nhận là ông Trần Đức Ch (ông Ch là anh ruột bà H1). Tài sản cho nhận là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K thuộc quyền sử dụng và sở hữu hợp pháp của bà Trần Thanh H1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liên với đất số BM 345113 do UBND quận K cấp ngày 23/9/2013.

Căn cứ vào quy định của pháp luật tại thời điểm chứng nhận, đối chiếu với hồ sơ lưu trữ, nội dung của 03 Hợp đồng cho nhận nêu trên, nhận thấy:

+ Việc chứng nhận các Hợp đồng cho nhận nêu trên đều được thực hiện tại trụ sở Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội + Bên cho và bên nhận đều có mặt tại Phòng Công chứng số X để giao kết Hợp đồng.

+ Tại thời điểm giao kết bên cho và bên nhận đã xuất trình đầy đủ các bản chính giấy tờ theo quy định của pháp luật, đã tự đọc Hợp đồng, đã được công chứng viên các quyền và nghĩa vụ liên quan và tự ký tên vào hợp đồng trước mặt công chứng viên.

+ Nội dung, mục đích của Hợp đồng cho nhận không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

Như vậy, việc chứng nhận các Hợp đồng nêu trên được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật tại thời điểm công chứng, đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của các bên liên quan.

ngày 31/10/2022, bà Lê Thanh Ph (người đại diện theo ủy quyền của Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội) có đơn gửi Tòa án xin vắng mặt tại các buổi làm việc, hòa giải, phiên tòa xét xử.

* Ủy ban nhân dân quận K có ý kiến như sau:

ngày 15/3/2023, UBND quận K có văn bản số 354/UBND- TNMT gửi Tòa án, trong đó có nội dung:

“ ngày 15/10/2021, UBND quận K đã có văn bản số X502/UBND-TNMT gửi Tòa án nhân dân quận K về việc cung cấp hồ sơ nhà đất tại 178  K, phường L. Đề nghị Tòa tiếp tục sử dụng các thông tin, hồ sơ tài liệu đã được cung cấp tại văn bản trên”.

Tại Văn bản số X502/UBND-TNMT ngày 15/10/2021, UBND quận K cung cấp cho Tòa án nhân dân quận K:

+ Hồ sơ đăng ký biến động cho tặng diện tích nhà đất tại đại chỉ 178  K giữa bên cho tặng là bà Ngô Thị Kh, bên nhận là ông Trần Đức Ch.

+ Hồ sơ đăng ký biến động cho tặng một phần diện tích nhà đất tại địa chỉ 178  K giữa bên cho tặng là ông Trần Đức Ch, bên nhận là bà Trần Thanh H1.

ngày 20/2/2023, người đại diện của UBND quận K có đơn xin xét xử vắng mặt * Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành ghi ý kiến của ông Trần Đức T và ông Trần Đức Th là anh của ông Trần Đức Ch, con trai cụ Kh.

+ Ý kiến của ông Trần Đức T: Ngôi nhà 178  K là tài sản ông bà ngoại để lại cho mẹ ông, năm 2003 mẹ ông đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất.

Hiện nay ở tại 178  K có mẹ ông và bà H1 (em gái ông T) ở ngoài ra không có ai ở tại đây.

Mắt mẹ ông trước đây bị đục thủy tinh thể, mắt kém từ khoảng năm 1983, sau đó đã thay cả hai mắt.

Việc mẹ ông làm thủ tục tặng nhà cho ông Ch và ông Ch tặng cho lại bà H1 vào năm 2013 ông T không được biết. Đến 01/01/2021, ông T mới được biết.

Việc mẹ ông có tự nguyên tặng cho ông Ch nhà đất tại 178  K hay không ông không rõ.

Nay mẹ ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Tuyên vô hiệu các hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 178  K, K, Hà Nội.

- Hủy Giấy chứng nhận được tách, sang tên đối với tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 178  K, K, Hà Nội.

Quan điểm của ông mong muốn Tòa án giải quyết chấp nhận yêu cầu của mẹ ông buộc ông Ch phải trả lại nhà đất cho mẹ ông.

Việc ông Ch khai ông Ch bỏ tiền xây, sửa nhà 178  K là không đúng. Chỉ có vợ chồng ông có sửa chữa khoảng năm 1990 gồm thay cửa ra vào, sửa chữa nhà vệ sinh, lát lại nền nhà, sửa mái (thời gian này vợ chồng ông sống tại 178  K). Từ đó đến nay không ai xây sửa gì, anh Ch chỉ có quét vôi và làm vệ sinh phòng anh Ch ở.

+ Ý kiến của ông Trần Đức Th: Mắt mẹ ông trước đây bị đục thủy tinh thể, sau đó đã thay cả hai mắt (thời gian trên 10 năm).

Việc mẹ ông làm thủ tục tặng nhà cho ông Ch vào năm 2013 ông không được biết. Khoảng tháng 6 năm 2020 ông Ch gặp ông Th và bà H1 tại 178  K bàn về việc trông nom mẹ. Tại đây, ông Ch nói muốn trực tiếp nuôi mẹ, ông có nói với ông Ch là anh em cần phải đóng góp tiền nuôi mẹ nhưng ông Ch không đồng ý. Sau đó khoảng 1 tháng ông Ch gọi ông Th đến 178 Trần Quang Khai và nói với ông là: “Mẹ bảo em là bất nhân nếu vậy em sẽ bất nhân. Cái nhà này là tôi giữ cho các người”.

Sau đó ông Th gọi cho ông Ch và nói với ông Ch là bán nhà để chia. Ông Ch đồng ý và yêu cầu được hưởng 50% giá trị nhà còn lại là phần của mẹ và các anh chị em. Ông Th có đến 178  K nói chuyện này với mẹ ông, bà H1 và vợ của ông Đ mọi người đều đồng ý là cho ông Ch 50% giá trị ngôi nhà (thời gian này khoảng giữa tháng 7/2020). Ông Th có gọi điện cho ông Ch thông báo là mẹ và anh chị em đồng ý phương án cho ông Ch 50% giá trị ngôi nhà. Sau đó ông Th liên tục đến nhà, gọi điện nhưng ông Ch không nghe máy và không tiếp ông tại nhà nên ông đã nhắn tin cho ông Ch vào ngày 08/8/2020 nội dung “A gọi em để xin lịch hẹn cho khách đến giao dịch về nhà cửa ở 178  K, em cho biết sớm để họ gặp nhé” Nhưng ông Ch không trả lời.

ngày 17/8/2020, ông Ch có nhắn tin cho ông hẹn gặp tại 178  K. ngày 18/8/2020, ông Th có đến 178  K tại đây có ông Th, ông Ch, bà H1, cụ Kh. Ông Th có nói anh em kiến giả nhất phận tốt nhất Bán nhà để chia cho các anh em. ông Ch và bà H1 không nói gì. Vì lúc đó ông Th có việc bận nên ông đi luôn. Sau lần này ông Th và ông Ch không gặp nhau.

Ông Th được biết ông Ch có khai tại Tòa là bà H1 bán lại phần nhà đất tại 178  K cho ông Ch và ông Ch có trả cho bà H1 số tiền khoảng 7.200.000.000 đồng, việc này ông không biết. Ông Th chỉ nghe bà H1 nói là ông Ch có vay của bà H1 vàng (khoảng 10 cây vàng) sau một thời gian dài mới trả hết. Ông Th có nghe bà H1 nói lại là vợ ông Ch đến nhà nói với cụ Kh là đưa 10 tỷ để mẹ chia cho các anh chị em và cụ Kh không đồng ý Nay cụ Kh khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Tuyên vô hiệu các hợp đồng cho- nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 178  K, K, Hà Nội.

- Hủy Giấy chứng nhận được tách, sang tên đối với tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 178  K, K, Hà Nội.

Quan điểm của ông Th mong muốn hòa giải trong gia đình để tìm hiểu nguyên nhân vì sao Ch lại thay đổi như vậy vì trước đây Ch là người hiền lành.

* Tại ý kiến của ông Nguyễn Chí Dũng (là chồng của bà Trần Thanh H1) hiện ở 178  K, quận K, Hà Nội gửi Tòa án, có nội dung:

Vào khoảng cuối năm 2012, ông Dũng được nghe cụ Kh nói chuyện với ông Ch là sẽ giao nhà 178  K cho ông Ch trông nom. Sau đó bà H1 (vợ ông Dũng) có nói với ông Dũng về việc ông Ch nhờ bà H1 ra Phòng công chứng hỏi thủ tục và ra UBND phường L để xin Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của cụ Kh, còn thủ tục sau đó như thế nào ông Dũng không được biết.

Những năm sau này ông Dũng vẫn nghe cụ Kh nói đã giao cho ông Ch trông nom thờ cúng các cụ bên ngoại vì ông Ch thạo cúng lễ.

Quá trình chung sống tại đây ông Dũng chưa từng nghe thấy việc cụ Kh tặng cho ông Ch ngôi nhà 178  K vì gia đình vợ chồng ông vẫn sống tại tại đây cùng cụ Kh, chăm sóc, phụng dưỡng cụ Kh từ 1995 đến nay, hàng năm cụ Kh vẫn là người nộp thuế đối với nhà đất tại 178  K.

Tại Tòa án, ông Ch và bà N có trình bày: Việc bà H1 tặng cho lại một phần diện tích nhà 178  K cho ông Ch thì ông Ch đã thanh toán số tiền 7.200.000.000 đồng cho bà H1.

Để có cơ sở giải quyết vụ án đúng pháp luật, Tòa án đã ra Thông báo yêu cầu ông Trần Đức Ch và bà Đinh Thị N cung cấp cho Tòa án các tài liệu chứng cứ chứng minh ông Ch có thanh toán cho bà Trần Thanh H1 số tiền 7.200.000.000 đồng (bảy tỷ hai trăm triệu đồng), tuy nhiên ông Ch, bà N không giao nộp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm 18/2023/DS-ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

[1]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc đề nghị Tòa án tuyên vô hiệu các Hợp đồng sau đây:

+ Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được lập ngày 23/01/2013 tại Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội, số công chứng 488.13, quyển số X TP/CC-SCC/HĐGD, do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng được giao kết giữa bên cho là cụ Ngô Thị Kh, bên nhận là ông Trần Đức Ch. Tài sản cho nhận là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K, phường L, quận K, Hà Nội đứng tên cụ Ngô Thị Kh theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003.

+ Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được lập ngày 03/9/2013 tại Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội, số công chứng 5057.13, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng cho - nhận được giao kết giữa bên cho là ông Trần Đức Ch, bên nhận là bà Trần Thanh H1. Tài sản cho nhận là một phần quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K, phường L, quận K, thành phố Hà Nội đứng tên ông Trần Đức Ch theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số X0105130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003, đăng ký sang tên cho ông Trần Đức Ch ngày 26/02/2013.

+ Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được lập ngày 06/9/2018 tại Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội, số công chứng 5793.18, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng cho - nhận được giao kết giữa bên cho là bà Trần Thanh H1, bên nhận là ông Trần Đức Ch. Tài sản cho nhận là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K, phường L quận K, thành phố Hà Nội đứng tên bà Trần Thanh H1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liên với đất số BM 345113 do UBND quận K cấp ngày 23/9/2013.

[2]. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn đề nghị Tòa án tuyên hủy việc đăng ký sang tên và hủy Giấy chứng nhận được tách, sang tên sau:

+ Đăng ký sang tên theo Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất- SCC 488/13 được Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội công chứng ngày 23/01/2013 cho ông Trần Đức Ch có xác nhận ngày 26/02/2013 của UBND quận K (tại Giấy chứng nhận số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003 đứng tên cụ Ngô Thị Kh) + Đăng ký sang tên một phần diện tích theo Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất-SCC: 5057/13 được Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội công chứng ngày 03/9/2013 cho bà Trần Thanh H1. Phần diện tích còn lại 42m2 sử dụng riêng(giới hạn 4, 5, 5’, 4’, 4); diện tích xây dựng 37,4, diện tích sử dụng 62,7m2 (tại Giấy chứng nhận số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003 đứng tên cụ Ngô Thị Kh) + Giấy chứng nhận quyền quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất địa chỉ 178  K, phường L, quận K, Hà Nội số BM435133 đứng tên bà Trần Thanh H1 do UBND quận K cấp ngày 23/9/2013. Giấy chứng nhận này được tách một phần từ Giấy chứng nhận số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003, sang theo Hợp đồng cho- nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất-SCC: 5057/13 được công chứng tại Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội 03/9/2013 + Đăng ký tặng cho: ông Trần Đức Ch theo Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số công chứng 5796 18, quyển số 3TP/CC- SCC/HĐGD lập ngày 06/9/2018 tại Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội được xác nhận của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội khu vực Ba Đình, K, Đ (tại Giấy chứng nhận số số BM435133 đứng tên bà Trần Thanh H1 do UBND quận K cấp ngày 23/9/2013).

+ Giấy chứng quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP114569 do Sở Tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 23/10/2018 đứng tên ông Trần Đức Ch. Giấy chứng nhận này được cấp đổi từ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003.

[3]. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc khôi phục lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đứng tên cụ Ngô Thị Kh tại 178  K, phường L, quận K, Hà Nội Không chấp nhận các yêu cầu khác của các đương sự.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm ngày 06/6/2023, nguyên đơn bà Ngô Thị Kh kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số X8/2023/DS- ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K.

ngày 06/6/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thanh H1 kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số X8/2023/DS- ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K.

Tại phiên tòa:

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Kim H trình bày nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Luật sư H trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 288 Bộ luật Tố tụng dân sự tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm cho đến khi có kết quả giải quyết cuồi cùng về đơn khiếu nại của cụ Ngô Thị Kh tại Ủy ban nhân dân phường L.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thanh H1 là Luật sư H trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho bà H1, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên hủy bản án dân sự sơ thẩm số X8/2023/DS- ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K vì đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức trong quá trình giải quyết vụ án.

Bà Nguyễn Kim H là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thanh H1 thống nhất với ý kiến trình bày của Luật sư H và trình bày bổ sung là ông Trần Đức Ch đã có hành vi lừa dối đối với cụ Kh khi đưa cụ Kh ra Phòng công chứng để ký kết hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được lập ngày 23/01/2013 tại Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội.

Bà Nguyễn Thị Kim A là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị N trình bày ý kiền đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số X8/2023/DS- ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện VKS nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số X8/2023/DS-ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

1.1. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Cụ Ngô Thị Kh khởi kiện đối với bị đơn là ông Trần Đức Ch, có Hộ khẩu thường trú tại số X78  K, phường L, quận K, Hà Nội yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu các Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại 178  K, và yêu cầu hủy việc sang tên, hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại 178  K không đứng tên cụ Ngô Thị Kh.

Theo quy định tại Luật đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai thì việc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực. Trong quá trình giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Do vậy, căn cứ Điều 26, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận K thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

1.2. Về thời hiệu khởi kiện: Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị đơn đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm xem xét thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm có nhận định:

“…Nhận thấy: Nguyên đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu 03 hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại 178  K đã lập tại Phòng công chứng số X Thành phố Hà Nội với lý do: cụ Kh bị nhầm lẫn và bị lừa dối và không đúng ý nguyện của cụ Kh theo Điều 131, 132 Bộ luật Dân sự 2005, không tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày khi ký hợp đồng tại Phòng công chứng năm 2013 cụ Kh chỉ có ý định giao cho ông Ch quản lý, trông coi, thờ cúng bên ngoại, nên không biết việc ông Ch đã sang tên Giấy chứng nhận từ tên cụ Kh sang tên ông Ch, đến năm 2018 cụ Kh mới yêu cầu ông Ch trả lại Giấy chứng nhận cho cụ Kh, đến tháng 12/2020 khi ông Ch đưa người đến thẩm định cụ Kh mới biết việc ông Ch đã làm thủ tục sang tên ông Ch. Do vậy, ngày 04/01/2021, cụ Kh đã làm đơn khởi kiện gửi Tòa án. Đồng thời xuất trình cho Tòa án Vi bằng ghi buổi nói chuyện giữa ông Ch và cụ Kh thể hiện cụ Kh yêu cầu ông Ch trả lại nhà.

Tại Điều 132 Bộ luật dân sự 2015, có quy định:

“1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:...

b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;” Căn cứ lời trình bày của đương sự, các tài liệu chứng cứ, căn cứ vào quy định của Bộ luật Dân sự, xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn còn trong thời hiệu khởi kiện…” không chấp nhận yêu cầu áp dụng thời hiệu của nguyên đơn là có căn cứ.

1.3. Về việc xác định người tham gia tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định cụ Ngô Thị Kh là nguyên đơn; ông Nguyễn Đức Ch là bị đơn; Phòng công chứng số X – Thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân quận K, bà Trần Thanh H1, bà Đinh Thị N là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ.

Theo yêu cầu của đương sự, ngày 17/8/2023, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xem xét thẩm định tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy trong vụ án này nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu các Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại 178  K, và yêu cầu hủy việc sang tên, hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại 178  K không đứng tên cụ Ngô Thị Kh. Bị đơn không có yêu cầu phản tố; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập nên những người đang sinh sống cùng với cụ Kh ngoài bà H1 tại nhà đất có địa chỉ tại 178 phố  K, Hội đồng xét xử xét thấy không liên quan đến việc giải quyết tranh chấp trong vụ án này.

1.4. Về yêu cầu tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm của Luật sư và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn:

Căn cứ vào biên bản xác minh ngày 08/3/2023 lập tại trụ sở UBND phường L: Khoảng cuối năm 2012 UBND phường L có làm thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân cho cụ Kh. Người đến nộp đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân cho cụ Kh là bà Trần Thanh H1 (con gái cụ Kh). Trong hồ sơ có tờ khai xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do bà H1 làm theo mẫu, mục đích của việc cấp giấy xác nhận để tặng, cho tài sản; có phô tô chứng minh thư của cụ Kh, bà H1, có giấy cam đoan phần ghi người khai trong giấy cam đoan có chữ ký của cụ Kh, có giấy chứng tử của chồng cụ Kh là cụ Trần Đức T thủ tục xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đúng quy định tại Điều 67 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký quản lý hộ tịch. Về việc không có giấy ủy quyền thì căn cứ Điều 10 Nghị định 158/2005/NĐ-CP đã được sửa đổi bổ sung bởi khoản 3 Điều 1 Nghị định 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 quy định: " Người có yêu cầu đăng ký hộ tịch (trừ trường hợp đăng ký kết hôn, đăng ký giám hộ, đăng ký việc nhận cha, mẹ, con) hoặc yêu cầu cấp các giấy tờ về hộ tịch mà không có điều kiện trực tiếp đến cơ quan đăng ký hộ tịch, thì có thể ủy quyền cho người khác làm thay. Việc ủy quyền phải bằng văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực hợp lệ. Nếu người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh, chị, em ruột của người ủy quyền, thì không cần phải có văn bản ủy quyền, nhưng phải có giấy tờ chứng minh về mối quan hệ nêu trên.”. Căn cứ vào các lời khai của các con cụ Kh và thực tế là sau khi chồng cụ Kh là cụ Tái chết thì cụ Kh không kết hôn hay chung sống cùng với ai như vợ chồng.

Như vậy, việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của UBND phường L là đúng quy định pháp luật nên yêu cầu tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm của Luật sư và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không có căn cứ để chấp nhận.

[2]. Về hình thức:

Đơn kháng cáo nguyên đơn làm trong thời hạn luật định; đơn kháng cáo của bà Trần Thanh H1 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm trong hạn luật định và nộp tạm ứng án phí phúc thẩm; đơn kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về hình thức là hợp lệ.

[3] Về nội dung vụ án:

3.1. Xét kháng cáo của nguyên đơn: Hội đồng xét xử thấy:

* Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa cụ Kh và ông Ch ngày 23/01/2013 - Về hình thức: Hợp đồng tặng cho được lập thành văn bản, người tham gia ký kết hợp đồng có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, có xác nhận của văn phòng công chứng, có chữ ký và chữ viết của cụ Kh và ông Ch nên hợp đồng tặng cho tuân thủ quy định về mặt hình thức.

- Về nội dung: Cụ Kh tặng cho ông Ch toàn bộ diện tích nhà đất tại địa chỉ 178  K, L, K, Hà Nội theo giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số X0105130216 cấp ngày 25/11/2003 đứng tên cụ Ngô Thị Kh. Cụ Kh đồng ý cho đứt ông Ch, việc cho nhận này dứt khoát và không kèm theo bất cứ một điều kiện nào. Sau khi ký hợp đồng thì ông Ch đã đăng ký sang tên tại UBND quận K ngày 26/02/2013. Căn cứ Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký. Do đó hợp đồng tặng cho tài sản ngày 23/01/2013 phát sinh hiệu lực.

Phía nguyên đơn cho rằng khi ký hợp đồng tặng cho tại Phòng công chứng cụ Kh chỉ có ý định giao cho ông Ch quản lý, trông coi thờ cúng bên ngoại nên không biết việc ông Ch đã sang tên giấy chứng nhận. Thủ tục công chứng không đúng quy định của pháp luật do cụ Kh không đọc được vì mắt cụ Kh bị đục thủy tinh thể, không ai đọc cho cụ Kh nghe, thủ tục xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân tại UBND phường L không đúng quy định của pháp luật vì cụ Kh không biết, không ủy quyền cho bà Trần Thanh H1 xin xác nhận tình trạng hôn nhân.

Về giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do UBND phường L cấp như đã phân tích ở trên là đúng quy định pháp luật.

Về việc cụ Kh không đọc được vì mắt bị đục thủy tinh thể: căn cứ vào phiếu siêu âm và kết quả khám ngày 04/6/2021 do phía nguyên đơn cung cấp thì mắt phải dịch kính vẩn đục thành đám bong võng mạc phía trên trong, mắt trái dịch kính vẩn đục không bong võng mạc. Mắt phải mù một mắt; mắt trái thị lực không kính 20/400. Mặc dù một bên mắt phải của cụ Kh không nhìn thấy nhưng đây là kết quả khám mắt năm 2021, thời điểm cụ Kh ký hợp đồng tặng cho là năm 2013 nên không thể sử dụng tài liệu năm 2021 để xác định thời điểm năm 2013 cụ Kh không đọc được. Mặt khác căn cứ vào biên bản đối chất, biên bản phiên tòa sơ thẩm thì cụ Kh khai cụ có đến phòng công chứng số X theo hướng dẫn của ông Ch, cụ thừa nhận có ký vào hợp đồng tặng cho theo hướng dẫn của mọi người.

Đối chiếu với lời khai của công chứng viên Phòng công chứng số X xác định: Công chứng viên đã hướng dẫn cụ Kh khai các giấy tờ để làm thủ tục công chứng, phiếu yêu cầu công chứng do chính cụ Kh tự viết, hợp đồng tặng cho cụ Kh ký trước mặt công chứng viên, công chứng viên đã giải thích quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu công chứng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Điều 9 Luật công chứng năm 2006 thì: "Trong trường hợp pháp luật quy định việc công chứng phải có người làm chứng hoặc trong trường hợp pháp luật không quy định việc công chứng phải có người làm chứng nhưng người yêu cầu công chứng không đọc được hoặc không nghe được hoặc không ký và không điểm chỉ được thì phải có người làm chứng.

Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu họ không mời được thì công chứng viên chỉ định." Như vậy nếu cụ Kh không đọc được thì cụ phải trình bày với công chứng viên về năng lực hành vi dân sự của mình. Tuy nhiên cụ Kh không trình bày cũng không có ai trong gia đình cụ Kh trình bày việc cụ Kh không đọc được, cụ Kh tự khai phiếu yêu cầu công chứng, tự ký vào văn bản công chứng nên việc cụ Kh cho rằng mình không đọc được là không có cơ sở. Ngoài ra tại cấp phúc thẩm khi Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tài sản nhà đất tại 178 phố  K thì cụ Kh đã trực tiếp ký vào biên bản xem xét thẩm định tại chỗ trước mặt Tòa án và đại diện chính quyền địa phương và một số người con của cụ Kh. Do đó việc cụ Kh trình bày mình không đọc được là không có cơ sở chấp nhận.

Do đó hợp đồng tặng cho tài sản công chứng ngày 23/01/2013 có hiệu lực pháp luật nên không có căn cứ tuyên hợp đồng tặng cho là vô hiệu theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Xét 02 hợp đồng tặng cho một phần diện tích nhà đất tại địa chỉ 178  K giữa ông Ch và bà H1 lập tại văn phòng công chứng số X ngày 03/9/2013 và hợp đồng tặng cho giữa bà H1 – ông Ch ngày 06/9/2018 - Về hình thức: Các hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng theo quy định của pháp luật - Về nội dung: Ông Ch đồng ý cho bà H1 một phần diện tích nhà đất tại địa chỉ 178  K gồm diện tích sử dụng riêng 30m2, tài sản gắn liền với đất, nhà gạch 2 tầng diện tích xây dựng 27m2, tổng diện tích 42m2.

Toàn bộ tài sản nhà đất nêu trên đã đứng tên ông Ch từ ngày 26/02/2013 nên việc ông Ch tặng cho một phần diện tích nhà và đất là quyền của ông Ch. Bà H1 cũng xác nhận việc này tại cấp sơ thẩm. Bà H1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 345133 ngày 23/9/2013. Như đã phân tích ở trên, hợp đồng tặng cho giữa cụ Kh và ông Ch phát sinh hiệu lực nên hợp đồng tặng cho giữa ông Ch, bà H1 cũng phát sinh hiệu lực.

Sau đó ngày 06/9/2018, bà H1 đã tặng cho lại toàn bộ phần diện tích nhà và đất nêu trên cho ông Ch. Hai bên cũng xác lập hợp đồng tặng cho tại văn phòng công chứng theo đúng quy định của pháp luật. Ông Ch đã đăng ký biến động tại Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh khu vực Ba Đình, K, Đ. Do đó hợp đồng tặng cho ngày 06/9/2018 phát sinh hiệu lực nên không có cơ sở xem xét hủy 02 hợp đồng tặng cho theo yêu cầu của nguyên đơn.

Do 03 hợp đồng tặng cho nhà và đất tại địa chỉ 178  K phát sinh hiệu lực nên yêu cầu hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và các tài sản gắn liền với đất của nguyên đơn đứng tên ông Trần Đức Ch, bà Trần Thanh H1 là không có cơ sở chấp nhận; không có cơ sở khôi phục lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đứng tên cụ Ngô Thị Kh.

3.2. Xét kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thanh H1 Đối với lời khai của bà H1 về việc cụ Kh tặng cho ông Ch nhà đất không đúng ý nguyện của cụ Kh nhưng bà H1 là người đi làm thủ tục xin xác nhận tình trạng hôn nhân cho cụ Kh, bà sống trên nhà và đất cùng cụ Kh, bà cũng được ông Ch tặng cho một phần nhà đất, tự mình làm thủ tục đăng ký sang tên giấy chứng nhận quyền sở hữu, bà H1 có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật dân sự. Sau khi được ông Ch tặng cho một phần nhà đất, bà H1 lại chuyển trả lại ông Ch mà không chuyển trả lại cụ Kh là không hợp lý. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm bà H1 không có yêu cầu độc lập nên ngoài lời khai của bà H1 không có tài liệu chứng minh việc tặng cho là trái ý nguyện của cụ Kh nên không có cơ sở chấp nhận.

Về việc bà H1 kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm như đã phân tích trên không có căn cứ để chấp nhận.

3.3. Quan điểm của Hội đồng xét xử phúc thẩm:

- Các đương sự kháng cáo không đưa ra được tài liệu chứng cứ gì mới để chứng minh nên không có căn cứ để chấp nhận. Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số X8/2023/DS-ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K, Thành phố Hà Nội.

- Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4]. Về án phí:

Về án phí dân sự sơ thẩm: Cụ Ngô Thị Kh, sinh năm 1931, theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi năm 2009 cụ Ngô Thị Kh là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí theo quy định tại điểm đ, Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Ông Trần Đức Ch không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Cụ Ngô Thị Kh được miễn nộp tiền án phí dân sự phúc thẩm Bà Trần Thanh H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm Bởi các lẽ trênCăn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 147; Điều 184; Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 131, 132, 467, 689, 692, 722 Bộ luật Dân sự 2005;

- Các Điều 459, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Điều 106 Luật đất đai năm 2003.

- Điều 166 Luật đất đai năm 2013.

- Các Điều 92, 93 Luật Nhà ở năm 2005.

- Điều 122 Luật nhà ở năm 2014.

- Điều 9 Luật công chứng năm 2006.

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số X8/2023/DS-ST ngày 24/5/2023 của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hà Nội và quyết định cụ thể như sau:

1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc đề nghị Tòa án tuyên vô hiệu các Hợp đồng sau đây:

Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được lập ngày 23/01/2013 tại Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội, số công chứng 488.13, quyển số X TP/CC-SCC/HĐGD, do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng được giao kết giữa bên cho là cụ Ngô Thị Kh, bên nhận là ông Trần Đức Ch. Tài sản cho nhận là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K, phường L, quận K, Hà Nội đứng tên cụ Ngô Thị Kh theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003.

Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được lập ngày 03/9/2013 tại Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội, số công chứng 5057.13, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng cho - nhận được giao kết giữa bên cho là ông Trần Đức Ch, bên nhận là bà Trần Thanh H1. Tài sản cho nhận là một phần quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K, phường L, quận K, thành phố Hà Nội đứng tên ông Trần Đức Ch theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số X0105130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003, đăng ký sang tên cho ông Trần Đức Ch ngày 26/02/2013.

Hợp đồng cho - nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được lập ngày 06/9/2018 tại Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội, số công chứng 5793.18, quyển số 03 TP/CC-SCC/HĐGD do công chứng viên Lê Thanh Ph ký chứng nhận. Hợp đồng cho - nhận được giao kết giữa bên cho là bà Trần Thanh H1, bên nhận là ông Trần Đức Ch. Tài sản cho nhận là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số X78  K, phường L quận K, thành phố Hà Nội đứng tên bà Trần Thanh H1 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liên với đất số BM 345113 do UBND quận K cấp ngày 23/9/2013.

1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn đề nghị Tòa án tuyên hủy việc đăng ký sang tên và hủy Giấy chứng nhận được tách, sang tên sau:

Đăng ký sang tên theo Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất- SCC 488/13 được Phòng Công chứng số X thành phố Hà Nội công chứng ngày 23/01/2013 cho ông Trần Đức Ch có xác nhận ngày 26/02/2013 của UBND quận K (tại Giấy chứng nhận số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003 đứng tên cụ Ngô Thị Kh) Đăng ký sang tên một phần diện tích theo Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất-SCC: 5057/13 được Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội công chứng ngày 03/9/2013 cho bà Trần Thanh H1. Phần diện tích còn lại 42m2 sử dụng riêng(giới hạn 4, 5, 5’, 4’, 4); diện tích xây dựng 37,4m2, diện tích sử dụng 62,7m2 (tại Giấy chứng nhận số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003 đứng tên cụ Ngô Thị Kh) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất địa chỉ 178  K, phường L, quận K, Hà Nội số BM435133 đứng tên bà Trần Thanh H1 do UBND quận K cấp ngày 23/9/2013. Giấy chứng nhận này được tách một phần từ Giấy chứng nhận số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003, sang tên theo Hợp đồng cho- nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất-SCC: 5057/13 được công chứng tại Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội 03/9/2013 Đăng ký tặng cho: ông Trần Đức Ch theo Hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số công chứng 5796 18, quyển số 3TP/CC- SCC/HĐGD lập ngày 06/9/2018 tại Phòng công chứng số X thành phố Hà Nội được xác nhận của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội khu vực Ba Đình, K, Đ (tại Giấy chứng nhận số số BM435133 đứng tên bà Trần Thanh H1 do UBND quận K cấp ngày 23/9/2013).

Giấy chứng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP114569 do Sở Tài nguyên và môi trường thành phố Hà Nội cấp ngày 23/10/2018 đứng tên ông Trần Đức Ch. Giấy chứng nhận này được cấp đổi từ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số X015130216 do UBND thành phố Hà Nội cấp ngày 25/11/2003.

Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc khôi phục lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đứng tên cụ Ngô Thị Kh tại 178  K, phường L, quận K, Thành phố Hà Nội.

2. Về án phí:

2.1. Án phí sơ thẩm:

Cụ Ngô Thị Kh được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho cụ Kh số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0051068 ngày 29/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận K.

Ông Trần Đức Ch không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

2.2. Án phí phúc thẩm:

Cụ Ngô Thị Kh được miễn nộp án phí dân sự phúc thẩm.

Bà Trần Thanh H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Bà H1 đã nộp 300.000 đồng số tiền tạm ứng theo biên lai thu tiền số AA/2020/0052383 ngày 07/6/2023 nay chuyển thành án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 471/2023/DS-PT về yêu cầu tuyên bố hợp đồng cho nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu

Số hiệu:471/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;