TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 46/2023/HS-PT NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 18 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số 36/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 3 năm 2023. Do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị Th đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Bị cáo có kháng cáo: Hoàng Thị Th, sinh năm 1971 tại Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Ư, huyện N, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Hoàng Văn Nh (đã chết) và bà Đỗ Thị Th (đã chết); Có chồng là Vũ Văn T và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 135/QĐ-XPVPHC, ngày 25/8/2014 của Trưởng công an huyện Ninh Giang xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi Đánh bạc. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2022 đến 23/12/2022 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Vũ Văn T ở thôn Đ, xã Ứng Hòe, huyện N, tỉnh Hải Dương là đại lý bán xổ số kiến thiết của công ty TNHH một thành viên Xổ số kiến thiết Hải Dương (theo hợp đồng số 47/HĐLĐ-XSKT-2008). Hàng ngày, ông T để vợ là Hoàng Thị Th ngồi bán xổ số tại khu vực thôn Đ, xã Ứng Hòe, huyện N. Chiều ngày 20/12/2022, khi Th đang ngồi bán xổ số thì có một số người đến hỏi mua số lô, số đề thì Th đồng ý bán. Th thu tiền rồi viết số lô, số đề và số tiền mua của khách vào mặt sau tờ vé xổ số của ngày 19/12/2022 (không còn giá trị sử dụng) và đưa cho họ giữ; đồng thời Th cũng viết số lô, số đề và số tiền mua của khách vào 01 tờ giấy có dòng kẻ ngang kích thước (25x17,5)cm nhưng không ghi tên, tuổi, địa chỉ của họ, mục đích để hôm sau nếu khách trúng số lô, số đề thì mang tờ vé số lô tô mà Th viết nêu trên đến gặp Th để đối chiếu và trả tiền thắng cho khách.
Đến khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày, anh Nguyễn Khắc B, sinh năm 1988 ở thôn Tr, xã Ng, huyện N đến mua của Th 02 số lô 09, 90 mỗi số 100 điểm (một điểm lô tương ứng với số tiền 20.000 đồng), tổng số tiền Th bán số lô cho Bắc là 4.000.000 đồng, Th nhận đủ số tiền và ghi nội dung “20/12t” “09-100-” “90-100-” “Tổng 4tr” vào mặt sau một tờ vé số lô tô rồi đưa cho anh B. Sau đó, Nguyễn Bá T, sinh năm 1996 ở thôn V, xã Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương cũng đến mua 02 số lô 09, 90 mỗi số 40 điểm, tổng số Th bán số lô cho T là 1.600.000 đồng, Th nhận đủ số tiền và ghi nội dung “20/12t” “09-40-” “90-40-” vào mặt sau một tờ vé số lô tô rồi đưa cho Tiến.
Sau khi B và T mua số lô của Th thì có một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ đến mua 02 số đề của Th (không nhớ số nào) với tổng số tiền là 50.000 đồng. Th nhận tiền và viết cáp đưa cho người đàn ông này cầm. Đến khoảng 16 giờ 50 phút cùng ngày khi Th đang viết lại số lô của Tiến đánh vào tờ giấy có dòng kẻ ngang thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N phát hiện bắt quả tang thu giữ, thu giữ vật chứng.
Hình thức đánh số lô, số đề được thực hiện như sau: Dựa vào kết quả giải thưởng xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào 18 giờ 15 phút hàng ngày: Khách chọn số đề là số có 02 chữ số từ 00 đến 99 của giải đặc biệt trong kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng lúc 18 giờ 15 phút hàng ngày rồi chọn mức tiền để mua, nếu số đề khách chọn trùng với 2 số cuối cùng của giải đặc biệt cùng ngày thì tính là trúng. Th phải trả số tiền bằng 80 lần số tiền khách đã bỏ ra mua số đề, tức là 1.000 đồng ăn 80.000 đ, nếu khách chơi mà tính khuyến mại 20 % vào tiền đánh đề thì 1.000đ chỉ ăn 70.000đ. Nếu không trúng thì Th được hưởng số tiền khách đã mua số đề. Khách chọn số lô là số có 02 chữ số thuộc dãy số từ 00 đến 99 của 27 giải rồi chọn số điểm chơi, mỗi điểm tính giá là 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng). Nếu số lô khách chọn trùng với 02 chữ số cuối cùng của một trong số các giải của xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng lúc 18 giờ 15 phút cùng ngày thì trúng, Th phải trả 70.000 đồng cho khách tương ứng với 01 điểm lô mà khách trúng tức là 20.000 đ thì ăn 70.000 đồng. Nếu trúng nhiều lần thì nhân số điểm đánh với số lần trúng rồi nhân với 70.000 đồng. Khách đánh lô thì Th không cho khuyến mại. Khách đánh 3 càng (03 số cuối của giải đặc biệt) thì có tỷ lệ như sau: khách đánh 10.000 đồng thì ăn 4.000.000 đồng. Khách đánh lô xiên 2 (02 con số có 02 chữ số bất kỳ của 27 giải) thì 10.000 đồng ăn 100.000 đồng; còn đánh lô xiên 3 (03 con số có 02 chữ số bất kỳ của 27 giải) thì 10.000 đồng ăn 400.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HS-ST ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị Th phạm tội “Đánh bạc”. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Th 13 (mười ba) tháng tù được trừ 03 ngày tạm giữ còn phải chấp hành 12 tháng 27 ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án. Ngoài ra bản án còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 28/02/2023, bị cáo Hoàng Thị Th kháng cáo đề nghị được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, bị cáo Th vắng mặt và trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt bị cáo có quan điểm giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị HĐXX cho hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HSST ngày 17/02/2023 của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương theo hướng giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 08 đến 10 tháng tù. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Bị cáo kháng cáo trong thời hạn luật định nên kháng cáo hợp lệ. Trước khi xét xử phúc thẩm, bị cáo có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 290 của BLTTHS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định.
[2] Về nội dung: Khoảng 16 giờ 50 phút, ngày 20/12/2022 tại khu vực thôn Đ, xã Ư, huyện N, tỉnh Hải Dương, Hoàng Thị Th đang viết lại số lô của Tiến đánh vào tờ giấy có dòng kẻ ngang thì bị Cơ quan CSĐT- công an huyện N phát hiện, bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định tất cả các số lô, số đề, điểm mua, tiền mua số lô, số đề của khách trong chiều ngày 20/12/2022 Th đều ghi vào tờ giấy dòng kẻ ngang, đối với số lô, điểm lô của Nguyễn Khắc B và số đề, tiền mua đề của người đàn ông bỏ chạy thì Th chưa kịp ghi. Tổng số tiền Hoàng Thị Th sử dụng vào việc đánh bạc vào ngày 20/12/2022 là 19.074.000 đồng (trong đó: số tiền thực tế Thuỷ thu được khi bán số lô, số đề là 17.711.000 đồng và số tiền cộng thêm 20% cho khách khi bán số đề là 1.363.000 đồng). Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô, số đề là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi vi phạm. Tổng số tiền bị cáo đánh bạc là 19.074.000 đồng. Do vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc, theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ pháp luật. Về tội danh không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên HĐXX không xem xét.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, HĐXX xét thấy: Trong vụ án này, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt, đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, đã chấp hành xong quyết định xử phạt hành vi và đã được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có bố đẻ là ông Hoàng Văn Nh được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình thêm biên lai thể hiện đã nộp tiền án phí sơ thẩm, tiền phạt bổ sung và số tiền do phạm tội mà có thể hiện thái độ ăn năn hối cải, ý thức tốt trong việc chấp hành pháp luật, do vậy cần áp dụng thêm cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của BLHS. Xét thấy, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ và quyết định mức hình phạt là phù hợp. Do vậy, HĐXX phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HS-ST ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Th về phần hình phạt.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356, Điều 135 và 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Xử: Không nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị Th. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HS-ST ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương về phần hình phạt đối với bị cáo.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Th 13 (Mười ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”, được trừ 03 (ba) ngày tạm giữ, còn phải chấp hành 12 (Mười hai) tháng 27 (hai mươi bảy) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 46/2023/HS-PT về tội đánh bạc
Số hiệu: | 46/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về