Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 09/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt – tỉnh Lâm Đồng. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 54/2021/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2021/QĐXXST–HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Th – sinh năm 1986 Địa chỉ: Số 39 đường Trương Văn Ho, phường Y, thành phố ĐL, tỉnh LĐ.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá T – sinh năm 1980 Địa chỉ: Số A7, XN 92, đường Mê Li, phường Y, thành phố ĐL, tỉnh LĐ. (Chị Th, Anh T có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30 tháng 12 năm 2020 và các tài liệu có trong hồ sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Trần Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Nguyễn Bá T tự nguyện tìm hiểu yêu Thơng nhau, sống với nhau từ năm 2011, đến năm 2017 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, có tổ chức đám cưới. Sau khi kết hôn sống tại Thanh Hóa một thời gian thì vào Đà Lạt, Lâm Đồng làm ăn và sinh sống tại Số 39 đường Trương Văn Hoàn, phường 9, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng cho đến nay. Cuộc sống hôn nhân của hai vợ chồng hạnh phúc được vài năm đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, thỉnh thoảng có xảy ra xô xát, anh T đã chuyển về nhà họ hàng sinh sống, vợ chồng đã ly thân. Nay chị Th nhận thấy T cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gia đình đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Bá T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa chị Th và anh T có 02 con chung: Nguyễn Thị Bảo Qu – sinh ngày 07/01/2012 và Nguyễn Thị Ánh Th – sinh ngày 01/8/2016.

Khi ly hôn chị Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung và không yêu cầu anh Nguyễn Bá T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nợ chung.

Ngoài ra, chị Trần Thị Th không trình bày hay yêu cầu gì thêm.

Theo các tài liệu có trong trong hồ sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Nguyễn Bá T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Bá T thống nhất với ý kiến của chị Th đã trình bày về quan hệ hôn nhân và quá trình chung sống. Sau khi kết hôn sống tại Thanh Hóa một thời gian thì vào Đà Lạt, Lâm Đồng làm ăn và sinh sống cho đến nay, cuộc sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau. Hiện tại anh T đã chuyển về ở nhà của chị gái tại: Số A7, XN 92, đường Mê Linh, phường 9 thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Sống ly thân, nay nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc nên cũng đồng ý ly hôn với chị Trần Thị Th.

Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa chị Th và anh T có 02 con chung: Nguyễn Thị Bảo Qu – sinh ngày 07/01/2012 và Nguyễn Thị Ánh Th – sinh ngày 01/8/2016, hiện nay 02 con chung đang ở với mẹ. Khi Ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Thị Bảo Qu và không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con. Tuy cháu có nguyện vọng ở với mẹ, Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra anh Nguyễn Bá T không trình bày hay yêu cầu gì thêm.

Vụ án đã được Tòa án đưa ra hòa giải nhiều lần nhưng hòa giải không thành.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Trần Thị Th vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như trên; Anh Đỗ Bá T giữ nguyên yêu cầu của mình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng phát biểu đánh giá về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Th ký Tòa án và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Th ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu thuận T ly hôn giữa chị Trần Thị Th và anh Đỗ Bá T.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao 02 con chung: Nguyễn Thị Bảo Qu – sinh ngày 07/01/2012 và Nguyễn Thị Ánh Th – sinh ngày 01/8/2016 cho chị Trần Thị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục;

Về cấp dưỡng nuôi con: Không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Về án phí: Chị Trần Thị Th phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xuất phát từ mâu thuẫn gia đình, chị Trần Thị Th khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh Nguyễn Bá T, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “ ly hôn, tranh chấp về nuôi con” giữa nguyên đơn chị Trần Thị Th với bị đơn anh Nguyễn Bá T.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn anh Nguyễn Bá T có nơi cư trú tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng có thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Th và anh Nguyễn Bá T tự nguyện tìm hiểu yêu Thương nhau, sống với nhau từ năm 2011, đến năm 2017 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, có tổ chức đám cưới là hôn nhân được pháp luật công nhận là hợp pháp. Sau khi kết hôn sống tại Thanh Hóa một thời gian thì vào Đà Lạt, Lâm Đồng làm ăn và sinh sống tại Số 39 đường Trương Văn Hoàn, phường 9, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng cho đến nay. Cuộc sống hôn nhân của hai vợ chồng hạnh phúc được vài năm đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn.

Về nguyên nhân xin ly hôn: Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, thỉnh thoảng có xảy ra xô xát, anh T đã chuyển về nhà họ hàng sinh sống, vợ chồng đã ly thân. Nay cả hai nhận thấy T cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gia đình đã đến mức trầm trọng, không ai còn quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy đều đồng ý yêu cầu được ly hôn.

Căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ và lời khai của đương sự có trong hồ sơ cũng như tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hiện nay mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Th và anh T đã đến mức trầm trọng, T cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không còn sống chung với nhau thời gian dài và không ai còn quan tâm đến ai nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài cả chị Th và anh T đều có nguyện vọng được ly hôn. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa chị Trần Thị Th và anh Nguyễn Bá T là có sơ sở pháp luật và phù hợp với thực tế.

[4] Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa chị Th và anh T có 02 con chung: Nguyễn Thị Bảo Qu – sinh ngày 07/01/2012 và Nguyễn Thị Ánh Th – sinh ngày 01/8/2016.

Khi ly hôn chị Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung và không yêu cầu anh Nguyễn Bá T cấp dưỡng nuôi con chung.

Khi ly hôn anh Nguyễn Bá T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Thị Bảo Qu và không yêu cầu chị Th cấp dưỡng nuôi con.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc chị Th và anh T đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục mỗi người 01 con chung là nguyện vọng chính đáng và hợp pháp.

Tuy nhiên để đảm bảo sự phát triển toàn diện, cũng như các điều kiện sống của trẻ em được pháp luật bảo vệ thì cần phải tính đến điều kiện chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con của cả cha và mẹ, hiện nay 02 con chung của chị Th và anh T còn rất nhỏ rất cần bàn tay chăm sóc của người mẹ. Cháu Nguyễn Thị Bảo Qu mới 09 tuổi lại là nữ. Tòa án đã ghi nhận nguyện vọng cháu được ở với mẹ, cháu Nguyễn Thị Anh Th mới 05 tuổi. Về chỗ ở thì cả 02 vợ chồng không có nhà ở riêng. Hiện nay chị Th sinh sống tạm trú tại: Số 39 đường Trương Văn Ho, phường Y, thành phố ĐL, tỉnh LĐ; Anh T ở nhờ nhà chị gái tại: Số A7, XN 92, đường Mê Linh, phường Y thành phố ĐL, tỉnh LĐ. Về kinh tế cả hai đều buôn bán có thu nhập như nhau.

Xét thấy 02 cháu Nguyễn Thị Bảo Qu và cháu Nguyễn Thị Anh Th là cháu gái và tuổi còn rất nhỏ nên cần có sự chăm sóc, nuôi dưỡng của mẹ là rất cần thiết nhằm đảm bảo cho việc phát triển về tâm sinh lý, cũng như sinh hoạt hàng ngày giữa mẹ và con gái là thực tế và phù hợp hơn là sinh sống cùng cha.

Từ những nhận định nêu trên thấy việc giao 02 con chung: Nguyễn Thị Bảo Qu – sinh ngày 07/01/2012 và Nguyễn Thị Ánh Th – sinh ngày 01/8/2016 cho mẹ là chị Trần Thị Th nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật và thực tế nhằm bảo đảm điều kiện sống và sự phát triển toàn diện của các cháu đã được pháp luật bảo vệ, đồng thời tránh việc chia tách T cảm chị em trong một gia đình khi mà các cháu từ nhỏ đã phải chứng kiến sự đổ vỡ của bố mẹ.

Chị Trần Thị Th không yêu cầu anh Nguyễn Bá T cấp dưỡng nuôi con chung vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội Đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về nợ chung: Không có nợ chung; Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án số và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Chị Trần Thị Th khởi kiện ly hôn nên phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Th đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA /2017/ 0003543 ngày 19 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Chị Trần Thị Th đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án”.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Th về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” cụ thể:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự thỏa thuận thuận T ly hôn giữa chị Trần Thị Th với anh Nguyễn Bá T.

2. Về con chung: Giao 02 con chung Nguyễn Thị Bảo Qu – sinh ngày 07/01/2012 và Nguyễn Thị Ánh Th – sinh ngày 01/8/2016 cho chị Trần Thị Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi đủ tuổi thành niên. Anh Nguyễn Bá T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Trần Thị Th phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA /2017/ 0003543, ngày 19 tháng 01 năm 2021. Chị Th đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay (ngày 09/6/2021); Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 46/2021/HNGĐ-ST ngày 09/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;