TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 46/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG VÀ CẤP DƯỠNG NUÔI CON CHUNG
Ngày 24 tháng 9 năm 2019 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 239/2019/TLST-HNGĐ, ngày 24 tháng 6 năm 2019, về việc kiện “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12 tháng 8 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 04 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Ngọc T, sinh năm 1994; có mặt.
Địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bị đơn: Anh Lương Tuấn K, sinh năm 1996; vắng mặt.
Địa chỉ: Tổ dân phố 4, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình làm việc nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Lương Tuấn K chung sống với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ea Drăng, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk. Hai người chung sống và kết hôn trên cơ sở tự nguyện có qua thời gian tìm hiểu. Trong quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được thời gian đầu, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai người không hợp nhau về cách sống, anh K không lo làm ăn nuôi con, mặc dù chị T đã nhẫn nhịn và chịu đựng trong thời gian dài vì thương con còn quá nhỏ nhưng anh K vẫn không thay đổi, hai người đã ly thân với nhau. Nay nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với anh K được nữa nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh K.
Về nuôi con chung: Chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Lương Tuấn K có 01 con chung là Lương Huỳnh Mẫn N, sinh ngày 14/10/2018, hiện nay cháu còn nhỏ và chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu cho đến khi đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T yêu cầu anh Kiệt cấp dưỡng số tiền 1.500.000 đồng/tháng để chị T nuôi dưỡng cháu N cho đến khi đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Huỳnh Thị Ngọc T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Lương Tuấn K: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập hợp lệ anh K nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được theo khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo áp dụng thủ tục niêm yết công khai đối với anh Lương Tuấn K theo đúng quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Lương Tuấn K là vợ chồng. Do mâu thuẫn trong quá trình chung sống, nên chị T khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung và Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp với khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Tranh đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Căn cứ vào khoản 4 Điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của chị T là hoàn toàn tự nguyện và không trái pháp luật, nên cần chấp nhận.
Bị đơn anh Lương Tuấn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung: Chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Lương Tuấn K chung sống với nhau từ năm 2017 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ea Drăng, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận kết hôn số 69, ngày 14/4/2017. Hai người chung sống và kết hôn trên cơ sở tự nguyện có qua thời gian tìm hiểu. Trong quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách của hai người khác nhau, không còn chung quan điểm và cách sống nên xảy ra mâu thuẫn. Thực tế, qua xác minh tại chính quyền địa phương thì anh chị đã sống ly thân. Nay nhận thấy chị T và anh K không còn yêu thương, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, thực tế hôn nhân không còn tồn tại, nếu tiếp tục chung sống cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai người. Vì vậy, cần cho chị T và anh K được ly hôn, để giải phóng sự ràng buộc giữa hai người.
[3] Về nuôi con chung: Chị Huỳnh Thị Ngọc T và anh Lương Tuấn K có 01 con chung là Lương Huỳnh Mẫn N, sinh ngày 14/10/2018. Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu cho đến khi đủ 18 tuổi.
Xét thấy, cháu N còn nhỏ, lại đang sống với chị T nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của cháu cũng như khả năng nuôi dạy con của cả hai người, cần giao cháu N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
[5] Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét.
[6] Về án phí dân sự: Cần buộc chị Huỳnh Thị Ngọc T phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 70, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
- Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Ngọc T, chị Huỳnh Thị Ngọc T được ly hôn với anh Lương Tuấn K.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Lương Huỳnh Mẫn N, sinh ngày 14/10/2018 cho chị Huỳnh Thị Ngọc T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Anh Lương Tuấn K có quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc con chung không ai được cản trở.
3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đình chỉ yêu cầu của chị Huỳnh Thị Ngọc T về việc yêu cầu anh Lương Tuấn K cấp dưỡng nuôi con chung.
Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con.
4. Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Huỳnh Thị Ngọc T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét.
5. Về án phí dân sự: Chị Huỳnh Thị Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số: AA/2019/0000862, ngày 20/6/2019.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Lương Tuấn K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 46/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung
Số hiệu: | 46/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về