TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN
BẢN ÁN 460/2021/HSST NGÀY 21/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ
Ngày 21 tháng 9 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 461/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 489/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Xuân Ph; sinh ngày 23/02/1981 Nơi cư trú xóm M.H, xã H.G, huyện H.H, tỉnh N.Đ. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông Trần Xuân P, sinh năm 1955, con bà Hoàng Thị Ch, sinh năm 1953, có vợ Lê Thị Tuyết N, sinh năm 1982, có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2009. Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ ba.
- Tiền án: Bản án số 290/2017/HSST ngày 11/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. (Nộp án phí HSST ngày 3/4/2018, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2019).
- Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021 đến nay (Có mặt tại phiên tòa)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Quốc H, sinh năm 1979. Địa chỉ xóm T.Th, xã T.Q, thành phố S.C, tỉnh TN (Có đơn xin xét xử vắng mặt);
Người làm chứng:
- Anh Vũ Quang H, sinh năm 1995. Địa chỉ xóm B, xã C, huyện Đ.H, tỉnh TN (Vắng mặt) - Chị Lê Thị Ph1, sinh năm 1995. Địa chỉ xóm Đ, xã T, thị xã PY, tỉnh TN.
(Vắng mặt) Người chứng kiến:
- Bà Phạm Thị Ng, sinh năm 1962. Địa chỉ tổ 13, phường P.X,thành phố TN. (Vắng mặt);
- Ông Trần Văn S1, sinh năm 1958. Địa chỉ tổ 13, phường P.X,thành phố TN. (Vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 27/5/2021, tổ công tác Công an phường P.X làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực tổ 13 của phường, phát hiện 01 nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam thanh niên tự khai nhận tên là Trần Xuân Ph. Quá trình kiểm tra, phát hiện tại túi quần phía trước bên phải Ph đang mặc có 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. Ph khai đó là ma túy Heroine của Ph mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Ph và thu giữ vật chứng theo quy định.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra phối hợp với Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Ph là 0,276 gam. Trích 0,130gam chất bột màu trắng trên niêm phong kí hiệu P1 gửi giám định, còn lại 0,146gam chất bột màu trắng niêm phong bì kí hiệu P2 để lưu kho.
Hồi 05 giờ ngày 28/5/2021, Ph đang bị tạm giữ theo Quyết định tạm giữ số 321/QĐ-ĐCSMT ngày 28/5/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN (trong thời hạn 03 ngày, kể từ từ 23 giờ 30 phút ngày 27/5/2021 đến 23 giờ 30 phút ngày 30/5/2021). Sau khi được tống đạt Quyết định tạm giữ, Ph viết bản tự khai dưới sự quản lý, giám sát của đồng chí Vũ Quang H(sinh năm 1995, là cán bộ điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố TN), khi viết bản tự khai Ph bị đau tay nên xin cán bộ điều tra mở khóa còng tay, sau khi được mở còng, Ph bỏ trốn khỏi sự quản lý của cán bộ điều tra và chạy ra khỏi trụ sở Công an thành phố TN. Ph chạy được một đoạn thì thoát được khỏi sự truy đuổi của cán bộ điều tra rồi chạy vào ngõ nhỏ gần Bưu điện TN ra khu vực Kho bạc TN. Tại đó, Ph xin được của một người đàn ông không quen biết 01 bộ quần áo. Sau khi thay quần áo, Ph gặp một người bạn tên T (không rõ lý lịch, địa chỉ) và xin Toàn được 200.000đ. Ph mua nước uống hết 20.000đ rồi đi taxi đến nhà anh Nguyễn Quốc H(sinh năm 1979, trú tại xóm T.Th 1, xã T.Q, thành phố S.C, tỉnh TN) hết 180.000đồng. Tại đây, Ph xin của anh H 100.000đ để bắt xe đi thị xã PY trốn tránh sự truy đuổi của cơ quan Công an. Khi ra đến đường lớn, Ph phát hiện đang bị truy đuổi nên đã chạy vào trốn trên tầng 03 nhà chị Lê Thị Ph1, sinh năm 1982, tại xóm Đ, xã Th, thị xã PY, tỉnh TN. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Ph bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN phát hiện, bắt giữ.
Tại kết luận giám định số 903/KL-KTHS ngày 29/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì kí hiệu P1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng thu giữ ban đầu là: 0,276 gam.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Xuân Ph khai nhận: Khoảng 18 giờ 15 phút, ngày 27/5/2021, Ph đi xe ôm từ chợ D đến khu vực đường dân sinh thuộc phường P.X, thành phố TN tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi, Ph gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy Heroine với giá 250.000đồng. Sau đó, Ph cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần phía trước bên phải đang mặc rồi tìm nơi để sử dụng, đi được một đoạn thì bị Công an phường P.X phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Quá trình làm việc tại Cơ quan điều tra, khoảng 05 giờ 30 phút ngày 28/5/2021, Ph nảy sinh ý định bỏ trốn nhằm mục đích thoát khỏi việc bị Cơ quan điều tra xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy rồi bỏ chạy ra khỏi trụ sở của Công an thành phố TN như trên.
Lời khai nhận của Ph phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản sự việc, sơ đồ hiện trường, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi ngh a vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Vật chứng của vụ án: 02 bì niêm phong kí hiệu P1, P2 bên trong chứa ma túy và bao gói mẫu hoàn lại sau giám định; 01 bì niêm phong kí hiệu P bên trong chứa USB ghi hình; 100.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Số vật chứng đang được bảo quản tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN.
Tại bản Cáo trạng số 451/CT-VKSTPTN ngày 13 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Trần Xuân Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, và tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 386 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.
Trong phần luận tội, tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Trần Xuân Ph về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Trốn khỏi nơi giam; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 386 Bộ luật hình sự; s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với cả hai tội Trốn khỏi nơi giam và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm”quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự,. Đề nghị xử phạt từ 30 đến 36 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và từ 12 đến 18 tháng tù giam về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là từ 42 đến 54 tháng tù giam, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo
- Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý: Tịch thu tiêu hủy 02 bì niêm phong kí hiệu P1, P2 bên trong chứa ma túy và bao gói mẫu hoàn lại sau giám địnhl; 01 bì niêm phong kí hiệu P bên trong chứa USB ghi hình. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 100.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Tại phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Trốn khỏi nơi giam” là không oan, đúng người, đúng tội. Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi ngh a vụ liên quan, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và những chứng cứ tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 19 giờ ngày 27/5/2021, tại tổ 13, phường P.X, thành phố TN, Trần Xuân Ph có hành vi tàng trữ 0,276gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường P.X bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Khoảng 05 giờ 30 phút, ngày 28/5/2021, tại trụ sở Công an thành phố TN, số 27, đường H.V.T, thành phố TN, Trần Xuân Ph (đang bị tạm giữ theo Quyết định tạm giữ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN) có hành vi bỏ trốn khỏi nơi giữ. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TN phát hiện, bắt giữ Ph tại xóm Đt, xã Th, thị xã PY, tỉnh TN.
[3].Đánh giá của Hội đồng xét xử:
3.1. Về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà nước quản lý nhưng vẫn cố tình tàng trữ 0,276 gam Heroine để sử dụng cho bản thân do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật:
Nội dung điều 249 quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)...
...
c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
3.2. Về tội Trốn khỏi nơi giam, giữ: Bị cáo là người đang bị tạm giữ để điều tra về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, lợi dụng sơ hở của người quản lý đã cố ý chạy trốn khỏi nơi giam giữ là trụ sở Công an thành phố TN nhằm thoát khỏi việc bị tạm giữ, trốn tránh việc xử lý hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật hình sự.
Nội dung điều khoản 1 Điều 386 quy định:
“1. Người nào đang bị tạm giữ…mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý chất gây ma tuý, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi trốn khỏi nơi tạm giữ còn xâm phạm đến chế độ tạm giữ làm ảnh hưởng đến quá trình điều tra vụ án, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tung.
[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy:
5.1. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền sự, có 01 tiền án. Tại bản án số 290/2017/HSST ngày 11/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố TN xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong ngày 31/8/2019. Đến thời điểm xét xử bị cáo chưa được xoá án tích nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm 5.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, ham chơi, lười lao động, không tu dưỡng rèn luyện bản thân, Hội đồng xét xử xem xét tính chất mức độ phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để có một mức án phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội để bị cáo gây ra. Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa đối với cả hai tội là phù hợp.
[6] Vật chứng của vụ án: 02 bì niêm phong kí hiệu P1, P2 bên trong chứa ma túy và bao gói mẫu hoàn lại sau giám định; 01 bì niêm phong kí hiệu P bên trong chứa USB ghi hình là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tich thu tiêu huỷ; Số tiền 100.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam do bị cáo xin của anh Nguyễn Quốc H1 sử dụng vào việc bỏ trốn nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[7] Về hình phạt bổ sung và án phí
- Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, và tại phiên tòa bị cáo khai là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Đối với nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, Ph khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực phường P.X. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở để xử lý.
Đối với chị Nguyễn Thị Ph1 là chủ nhà nơi Ph trốn sự truy bắt của Cơ quan điều tra. Quá trình điều tra xác định chị Ph1 không đồng ý chứa chấp Ph nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở xử lý.
Đối với anh Nguyễn Quốc H1 và người đàn ông tên T (không rõ lai lịch) là những người cho tiền Ph và một người đàn ông cho Ph quần áo trong quá trình bỏ trốn. Quá trình điều tra xác định Ph không nói cho H1 biết việc Ph đang bỏ trốn và không xác định được nhân thân, lai lịch của ông T người trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có căn cứ xử lý.
Bởi các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
1. Bị cáo Trần Xuân Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Trốn khỏi nơi giam, giữ”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 55; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Trần Xuân Ph 30 (Ba mươi) tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”.
Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai tội là 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/5/2021. Không phạt bổ sung đối với bị cáo;
Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu P1 (bì niêm phong chứa 0,102 gam chất ma tuý, mặt sau bì có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh TN); 01 bì niêm phong ký hiệu P2 (bì niêm phong chứa 0,146 gam chất ma tuý ban đầu, mặt sau có 03 dấu tròn của Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố TN; 01 bì niêm phong ký hiệu B (chứa USB ghi hình).
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng), Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng và tài sản số số 620 ngày 20/8/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN và Uỷ nhiệm chi số 154 ngày 25/8/2021.
4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, ngh a vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết./
Bản án 460/2021/HSST ngày 21/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trốn khỏi nơi giam, giữ
Số hiệu: | 460/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về