TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 25 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:
Họ và tên: Phan Tuyết L, tên gọi khác: Lũng, Ruồi, sinh năm 1991, Nơi cư trú: Đường LM, Khóm X, phường Y, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ, Tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Tấn Đ1 và bà Huỳnh Kim Ph; Anh chị em ruột: 04 người, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2001; Chồng, con: Chưa có.
- Tiền án: 01 lần.
Bản án hình sự sơ thẩm số 279/2012/HS-ST ngày 24/12/2012, của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c (tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2015, chưa chấp hành phần án phí.
- Tiền sự: Không. Nhân thân:
- Ngày 12/01/2009, Ủy ban nhân dân thành phố Cà Mau ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn 24 tháng về hành vi cưỡng đoạt tài sản, chấp hành xong ngày 12/7/2010;
- Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2011/HS-ST ngày 17/02/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 04 tháng 11 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Trả tự do tại tòa (thời hạn tạm giữ tạm giam bằng thời hạn tù), chấp hành xong phần án phí ngày 25/8/2011.
- Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2011/HSST ngày 16/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/8/2012, chấp hành xong phần án phí ngày 26/4/2012.
- Bắt theo Quyết định truy nã, tạm giữ ngày 06/12/2020, chuyển tạm giam ngày 09/12/2020 đến nay, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cà Mau.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 02 giờ ngày 18/3/2020, Nguyễn Văn Q và Nguyễn Phú M đi đến trước trụ sở Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, đường Ngô Quyền, thuộc khóm 1, phường 9, thành phố Cà Mau, cả hai nảy sinh ý định vào trộm tài sản. Q trèo qua hàng rào vào trong sân, còn M đứng bên ngoài, Q đi đến phòng trực nghiệp vụ, dùng tay kéo cửa sổ ra thấy anh Phạm Văn Đ đang ngủ và phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 của anh Đ đang sạc pin cạnh cửa sổ, nhưng Q không dám lấy vì mới chấp hành án xong, sợ bị bắt nên trèo rào ra ngoài. Q kêu M vào lấy điện thoại, M đồng ý. M trèo qua hàng rào vào trong sân đến phòng trực nghiệp vụ dùng tay lấy 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 rồi trèo rào ra ngoài cùng Q về phường 8, thành phố Cà Mau.
Đến sáng cùng ngày ngày 18/3/2020, Q và M đến tiệm game bắn cá của bà Lê Thị Nh, sinh năm 1970, tại khóm V, phường Y, thành phố C chơi game thì gặp Phan Tuyết L (là bạn của Q và M) cùng chơi game. Trong thời gian chơi game thì M và Q thua hết tiền nên Q hỏi L mượn 100.000 đồng để chơi game thì L đồng ý và cho Q mượn 100.000 đồng. Sau đó, M lấy 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 vừa trộm được của anh Đ nhờ L đi bán dùm, M nói với L là điện thoại do M, Q trộm được, thì L đồng ý (L biết rõ điện thoại này do M và Q trộm mà có). L cầm điện thoại và tìm xe honda khách chở đi bán điện thoại thì gặp ông Phan Tấn Đ1, sinh năm 1968, cư trú khóm X, phường Y, thành phố C (là cha ruột của L, chạy xe honda khách) kêu chở đến chợ phường G, thành phố C, L vào bán điện thoại (không nhớ rõ cụ thể tiệm nào) với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, ông Đ1 chở L về đến tiệm game của bà Nhàn, L lấy tiền bán điện thoại trả cho ông Đ1 100.000 đồng tiền xe honda khách, đưa cho Q 1.400.000 đồng, Q trả cho L 100.000 đồng tiền mượn trước đó, còn lại 1.300.000 đồng Q và M chơi game và tiêu xài hết.
* Tại bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐG ngày 26/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cà Mau kết luận:
Thời điểm tháng 3 năm 2020:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7, đã qua sử dụng, giá trị còn lại 90%. 4.990.000 đồng x 90% = 4.491.000 đồng. Tổng cộng: 4.491.000 đồng.
Quá trình điều tra, Phan Tuyết L đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Cáo trạng số: 50/CT-VKS ngày 25 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Phan Tuyết L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo L thừa nhận hành vi phạm tội của mình và thừa nhận Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là đúng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên bị cáo không thừa nhận việc bị cáo biết rõ điện thoại Samsung Galaxy A7mà bị cáo bán dùm Q, M là do Q và M trộm cắp mà có.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Tuyết L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phan Tuyết L từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Về trách nhiệm dân sự: Đã được xử lý tại Bản án số 192/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 nên không đặt ra xem xét. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị tịch thu, sung vào công quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng, là tiền bị cáo thu lợi bất chính từ việc bán điện thoại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phan Tuyết L khai nhận: Phan Tuyết L vào ngày 18/3/2020, bị cáo nhận 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 do Nguyễn Văn Q và Nguyễn Phú M trộm cắp mà có đem đi bán được số tiền 1.500.000 đồng rồi về đưa tiền cho Q và M để hưởng lợi 100.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là đúng, không oan sai. Tuy nhiên bị cáo không thừa nhận việc bị cáo biết rõ là điện thoại Samsung Galaxy A7 là tài sản do Q và M phạm tội mà có, lời khai này của bị cáo là không có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ lời khai của bị cáo tại các Biên bản hỏi cung, Biên bản ghi lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, bị cáo đều khai rằng bị cáo biết rõ tài sản do M và Q phạm tội mà có và lời khai trong quá trình điều tra của bị cáo phù hợp với lời khai của Q và M tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận định giá tài sản và phù hợp với tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo xác định những chữ ký tại các Biên bản hỏi cung, Biên bản ghi lời khai đúng là chữ ký của bị cáo, bị cáo không khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, Kiểm sát viên.
[3] Khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội. Bị cáo biết rõ điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 là do Q và M trộm cắp mà có nhưng vì xem thường pháp luật, bị cáo vẫn tiêu thụ tài sản, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Cho nên có đủ căn cứ kh ng định hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự đúng như Viện kiểm sát truy tố.
[4] Khi lượng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có một tiền án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 279/2012/HS-ST ngày 24/12/2012, của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c (tái phạm nguy hiểm) khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2015, chưa chấp hành phần án phí nên lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp định khung tăng nặng là tái phạm nguy hiểm theo điểm đ khoản 2 Điều 323 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, vào ngày 12/01/2009, Ủy ban nhân dân thành phố Cà Mau ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, thời hạn 24 tháng về hành vi cưỡng đoạt tài sản, chấp hành xong ngày 12/7/2010; Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2011/HS-ST ngày 17/02/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt 04 tháng 11 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Trả tự do tại tòa (thời hạn tạm giữ tạm giam bằng thời hạn tù), chấp hành xong phần án phí ngày 25/8/2011; Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2011/HSST ngày 16/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/8/2012, chấp hành xong phần án phí ngày 26/4/2012. Sau khi trở về hòa nhập cộng đồng bị cáo không sửa chữa lỗi lầm, trở thành người có ích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, cho thấy bị cáo xem thường pháp luật. Do đó, cần xử lý nghiêm và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong xã hội.
Tại phiên tòa bị cáo không có thái độ thành khẩn khai báo nên không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Đã được xử lý tại Bản án số 192/2020/HS-ST ngày 13/11/2020, của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau nên không đặt ra xem xét là phù hợp.
[6] Đối với số tiền 100.000 đồng, bị cáo được hưởng lợi từ việc bán điện thoại mà có, đây là tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội nên cần tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước là có căn cứ.
[7] Đối với Nguyễn Văn Q và Nguyễn Phú M đã xét xử tại Bản án số 192/2020/HS-ST ngày 13/11/2020, của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, xử phạt đối với Nguyễn Văn Q 01 năm 06 tháng tù; Nguyễn Phú M 01 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đối với ông Phan Tấn Đ1, khi L kêu chở đi bán điện thoại, thì ông Đ1 không biết điện thoại do Q và M trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý là phù hợp.
[8] Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Phan Tuyết L phải nộp theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 323; điểm h khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên bố bị cáo Phan Tuyết L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Xử phạt bị cáo Phan Tuyết L 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (ngày 06/12/2020).
Tịch thu của bị cáo Phan Tuyết L số tiền 100.000 đồng, sung vào Ngân sách Nhà nước.
Án phí hình sự sơ thẩm, buộc bị cáo Phan Tuyết L phải nộp 200.000 đồng (chưa nộp).
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 44/2021/HS-ST ngày 25/03/2021 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 44/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về