TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, HÀ NỘI
BẢN ÁN 145/2020/HSST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Hôm nay, ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 142/TLST-HS ngày 22/4/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn T, sinh năm 1994; Giới tính: Nam; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đa Phạn, xã Hải Lộc, huyện Hải Hậu, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Trần ML, sinh năm 1956; Con bà: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1956.
Tiền án, tiền sự: Không.
Danh chỉ bản số 0895, lập ngày 26/12/2019 tại Công an quận Đống Đa. Bị cáo đầu thú ngày 25/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1958;
Địa chỉ: Thôn Đoài, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 20/12/2019, Trần Văn T vào mạng xã hội Facebook để tìm kiếm mua xe không giấy tờ thì thấy có một người rao bán 01 xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade màu đỏ có hai gương chiếu hậu. T và người này hẹn nhau giao dịch ở khu vực đường Láng. Khoảng 15 giờ ngày 21/12/2019 T đi đến chỗ hẹn tại khu vực đầu ngõ 1194, đường Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội thì gặp một người nam giới (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đứng tại đầu ngõ 1194, đường Láng cùng với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade màu đỏ, có hai gương chiếu hậu, ổ khóa bị đục phá, SK:572229, SM: 0595517. T kiểm tra xe và thấy ổ khóa bị đục phá, chìa khóa nào mở cũng được, xe không có giấy tờ, T biết là xe do phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý mua xe với giá 5.500.000 đồng, do không đủ tiền mua nên T gửi ảnh xe cho anh trai của T là Trần Văn Ng (Sinh năm:
1988, HKTT: Thôn Hải Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa), nhắn tin giới thiệu cho Ng mua xe với 5.800.000 đồng nhằm mục đích hưởng chênh lệch là 300.000 đồng. Sau khi được T giới thiệu, Ng đồng ý và bảo T mang xe về. T trả tiền cho người nam giới số tiền 5.500.000 đồng, sau đó lấy xe mang về nơi ở của Ng tại số 67, ngõ 402, đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Khi đến nơi, do Ng không có nhà nên T giao xe cho Hà Thị Ph (Sinh năm: 1994, HKTT: Bản Ga, xã Quang Trung, huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng) là vợ của Ng, T nói với Ph là xe máy của Ng mua, sau đó T đi xe ôm Grab ra về.
Về nguồn gốc chiếc xe máy Honda Air Blade màu đỏ, SK:572229, SM: 0595517. Qua giám định số khung, số máy của xe là số nguyên thủy, tra cứu số khung, số máy xác định chiếc xe đăng ký BKS: 29S1- 012.16, chủ xe theo đăng ký là chị Nguyễn Kim O (sinh năm: 1982, HKTT: Thôn Vệ, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội), chị O cho biết: Năm 2011 chị O có mua chiếc xe trên và đứng tên chính chủ sau đó chị đã bán lại chiếc xe trên cho ông Nguyễn Văn Kh. Ông Kh cho biết ông mua lại chiếc xe máy Honda Air Blade, màu đỏ, BKS: 29S1- 012.16 của chị O từ tháng 12/2011 và sử dụng đến tối ngày 20/12/2019 ông Kh để xe trong sân nhà tại Thôn Đoài, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội đến 21giờ thì đi ngủ và quên khóa cửa cổng. Đến khoảng 04giờ 30 phút ngày 21/12/2019 ông Kh dậy thì phát hiện chiếc xe của mình đã bị kẻ gian lấy trộm. Sau đó ông Kh đã đến Công an xã Nam Hồng để trình báo sự việc trên. Qua trao đổi với Công an xã Nam Hồng được biết ngày 21/12/2019 Công an xã Nam Hồng nhận được đơn trình báo của ông Kh về việc bị mất trộm chiếc xe máy Honda Air Blade màu đỏ, BKS: 29S1- 012.16 tại thôn Đoài, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội.
Theo Kết luận định giá tài sản số 113/ĐGTS ngày 13/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Đống Đa kết luận: Trị giá 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade màu đỏ, BKS: 29S1-01216, SK:572229, SM: 0595517 là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng). Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Đống Đa đã trao trả chiếc xe trên cho ông Nguyễn Văn Kh. Ông Kh đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì.
Ngoài ra, Trần Văn T khai nhận còn tiêu thụ tài sản 02 lần cụ thể:
+ Lần thứ nhất: Vào khoảng tháng 12/2019 (T không nhớ thời gian cụ thể) T mua 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS màu đỏ (không rõ BKS), không có giấy tờ xe của Lữ Mạnh H (Sinh năm: 1984, HKTT: Xã Thạch Đồng, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ) với giá 4.000.000 đồng tại khu vực đầu ngõ Kiến Thiết, quận Đống Đa, Hà Nội. Tuy nhiên do xe cũ nên sau đó T đã trả lại cho H.
+ Lần thứ hai: Sau khi trả lại xe Honda Wave RS màu đỏ (không rõ BKS), T đã mua 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen (không rõ BKS) của Lữ Mạnh H với giá 5.000.000 đồng tại khu vực đầu ngõ Kiến Thiết, quận Đống Đa, Hà Nội. Sau đó, T đã bán cho một nam thanh niên không quen biết qua mạng xã hội ở Phú Thọ (T không nhớ cụ thể thời gian và địa điểm giao dịch) với giá 5.700.000 đồng.
Đối với Lữ Mạnh H hiện đang bị Cơ quan CSĐT- Công an quận Đống Đa khởi tố điều tra về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong một vụ án khác, H khai nhận về việc đã bán cho T 02 chiếc xe máy như sau:
+ Lần thứ nhất: Vào khoảng tháng 12/2019 H có mua của một nam giới tên Ngọc (hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch) 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS màu đỏ (không rõ BKS) với giá 3.600.000 đồng tại ngõ 73 Khâm Thiên, quận Đống Đa, sau đó H bán chiếc xe máy trên cho Trần Văn T, tuy nhiên do xe cũ nên sau đó T đã trả lại cho H, H bán lại chiếc xe máy này cho Nguyễn Minh Q (Sinh năm: 1977, trú tại: Số 24 ngách 152 ngõ Xã Đàn 2, phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội) với giá 2.600.000 đồng.
+ Lần thứ hai: Sau khi bán xe cho T khoảng một tuần, do T chê chiếc xe máy trên nên H đã tiếp tục mua của Ngọc 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đen (không rõ BKS) tại đầu ngõ 73 Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội và bán lại cho T chiếc xe này với giá 5.000.000 đồng.
Cơ quan CSĐT- Công an quận Đống Đa đã làm việc với Nguyễn Minh Q, Q khẳng định không mua bất cứ chiếc xe máy nào của H như lời khai của H.
Đối với các vụ việc này, ngoài lời khai của T, H, không có tài liệu nào khác để làm rõ, các đối tượng không nhớ đặc điểm xe, thời gian giao dịch cụ thể, không có nhân chứng, người liên quan và không thu hồi được phương tiện do vậy không có căn cứ để xác minh làm rõ.
Đối với đối tượng bán xe cho Trần Văn T, T khai không biết nhân thân, lai lịch và không nhớ tài khoản Facebook nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.
Đối với Hà Thị Ph, Ph khai không tham gia việc mua bán, giao dịch xe và không biết nguồn gốc của xe máy là do người khác phạm tội mà có, nên không có căn cứ xử lý Ph về tội Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Đối với Trần Văn Ng, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Đống Đa tiến hành xác minh tại địa chỉ số 67, ngõ 402, đường Mỹ Đình, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội; chủ hộ là ông Bùi Văn Hòa cho biết Trần Văn Ng đến thuê nhà ông Hòa để làm cửa hàng và ở đây đến cuối tháng 12/2019 thì rời đi không quay lại, ông Hòa không rõ đi đâu, làm gì. Tiến hành xác minh Trần Văn Ng tại xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa; kết quả không xác định được Trần Văn Ng đi đâu, làm gì. Về hành vi của Ng, ngoài lời khai của Trần Văn T, Hà Thị Ph, không có tài liệu nào khác, hiện chưa đủ căn cứ khởi tố Ng về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Đống Đa tách toàn bộ tài liệu liên quan đến hành vi tham gia cùng Trần Văn T tiêu thụ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade màu đỏ, SK:572229, SM: 0595517 của Trần Văn Ng để tiếp tục điều tra, xử lý sau.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Tại Bản cáo trạng số 149/CT-VKSĐĐ, ngày 21/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Trần Văn T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm a,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn T mức án từ 05 tháng tù đến 08 tháng tù. Miễn áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo và xử lý vật chứng đã thu giữ: tịch thu điện thoại Iphone 6 màu vàng.
Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người liên quan và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ, ngày 21/12/2019, tại khu vực đầu ngõ 1194 đường Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội, Trần Văn T đã có hành vi tiêu thụ 01 chiếc xe máy Honda Air Blade màu đỏ, BKS: 29S1-012.16 là tài sản của ông Nguyễn Văn Kh bị mất trộm, tài sản trị giá 10.000.000 đồng.
Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được rằng việc mua bán, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có bị pháp luật nghiêm cấm, mọi hành vi vi phạm đều bị pháp luật nghiêm trị. Tuy nhiên, do ý thức coi thường pháp luật, vì động cơ vụ lợi, muốn có tiền bằng con đường bất chính, bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do lỗi cố ý gây ra. Vì vậy cần áp dụng một mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã ngăn chặn làm giảm bớt tác hại của tội phạm; bị cáo đầu thú; bố bị cáo là thương binh; đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm a,s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự, cần được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[5] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy có thể xử phạt bị cáo mức hình phạt tù bằng với thời hạn đã tạm giam cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 323 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định; vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Người liên quan đã được nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm về dân sự nên không xét.
[8] Về vật chứng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, Imei 358363064076839 có gắn sim Viettel có dãy số 8984048000069069544, bị cáo dùng để liên lạc mua bán xe máy trộm cắp nên tịch thu sung công.
[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Trần Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm a,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Văn T 05 (năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2019. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù. Tuyên bố trả tự do cho bị cáo Trần Văn T ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam, tạm giữ về tội nào khác.
2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu sung công 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, Imei 358363064076839 có gắn sim Viettel có dãy số 8984048000069069544.
Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 223 ngày 07/5/2020 của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa và Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.
3. Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.
Bản án 145/2020/HSST ngày 25/05/2020 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 145/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về