Bản án 44/2021/DSPT ngày 22/01/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂNCẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2021/DSPT NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 18 và ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 475/2020/TLPT-DS ngày 05 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 13/2020/DS-ST ngày 13/07/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:4024/2020/QĐPT-DS ngày16 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

Ông Phan Ngọc V, sinh năm 1966;(Có mặt).

Địa chỉ: Số ..., Ô 5, Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

2. Bị đơn:

Ông Phan Thành N, sinh năm 1971;(Có mặt).

Địa chỉ: Số ..., Ô 5, Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:

Luật sư Nguyễn Thị Thanh – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.(Có mặt).

Luật sư Lê Văn Thiện – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.(Có mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Phan Thị Thu Th, sinh năm 1973;(vắng mặt).

Địa chỉ thường trú: Số 08 ấp Chánh, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

3.2. Chị Đào Thị H, sinh năm 1991;(vắng mặt).

Địa chỉ: Số …, Ô 5, Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. An.

3.3. Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, sinh năm 1971;(vắng mặt).

Địa chỉ: Số ... Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long 3.4. Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa;

Địa chỉ: Ô 7, Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Người đại diện theopháp luật: Ông Trần Văn L - Chủ tịch.

Ngưi đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh Tr – PCT Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa (có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).

4. Người làm chứng:

4.1. Ông Phan Văn B, sinh năm 1959;(vắng mặt).

Địa chỉ: Số 125A Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

4.2. Ông Trừ Văn H, sinh năm 1953;(vắng mặt).

Địa chỉ: Số 107 H đường 3/2 Ô 3 Khu A thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

4.3. Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1945;(vắng mặt).

Đia chỉ: Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

5. Người kháng cáo: nguyên đơn, bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Phan Ngọc V ghi ngày 03/4/2017, đơn khởi kiện bổ sung ngày 17/5/2017:

Vào khoảng năm 1992 ông V cùng ông Phan Văn B hùn mỗi người 2 chỉ vàng 24k để “mua” của ông Năm X một cái ao cặp sát mé kênh Cầu Duyên – nay là khu đất hiện nay nằm phía sau nhà của ông, ông B và ông Phan Thành N có kích thước ngang 28m dài 24m. Sau khi chuyển nhượng chia hai, mỗi người được 14m ngang và tự san lấp.Đến khoảng năm 1995 ông chuyển nhượng lại cho ông Trừ Văn H một phần có chiều ngang 6m còn lại 8m ngang.Ông V cất nhà 4,40m và đã được Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 19/12/2003.Diện tích đất còn lại 3,6m ngang ông sử dụng cất chuồng nuôi bò, nuôi heo sau đó phá bỏ cải tạo thành chuồng nuôi nhím.

Ông Phan Thành N là em ruột ông được cha mẹ cho phần đất phía trước để cất nhà ở nhưng ông N đã tự ý kê khai đăng ký luôn phần đất còn lại phía sau của ông V diện tích 3,6m x 24m = 86,40m2. Ông N đã được Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở vào ngày 25/09/2003, thửa đất 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 136m2 tọa lạc tại Ô 5 Khu B thị trấn Đức Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Một thời gian sau khi ông kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà ở mới biết được diện tích đất của ông đã cấp quyền sử dụng đất ông N. Do lúc ông N kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà ở, cơ quan chức năng không đo đạc và xác định ranh đất. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở ông N đem thế chấp vay tiền ở Ngân hàng đến nay nên không có điều kiện tách trả diện tích đất ông N đã kê khai đăng ký.

Ông V khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở đứng tên Phan Thành N đối với một phần thửa 498, tờ bản đồ số 3, diện tích 86,40m2 ngang 3,6m dài 24m. Buộc ông N trả lại cho ông diện tích đất lấn chiếm này. Do tình nghĩa anh em nên sự việc kéo dài đến hôm nay. Ngoài ra, trong căn nhà trên còn có em gái ruột của ông là Phan Thị Thu Th và con gái đang quản lý sử dụng.

Bị đơn ông Phan Thành N tự khai ngày 26/5/2019:

Vào khoảng năm 1986 mẹ ông bán nhà cho ông Hi, mua lại đất tại vị trí tranh chấp và cất nhà ở. Hơn một năm sau, mua tiếp ao cá phía sau nhà khi đó anh em trong gia đình chưa có ai lập gia đình riêng. Ông nghe mẹ ông bàn với gia đình ông 8 Bình rủ hùn tiền mua cái ao sau nhà để cất nhà dài ra.Mẹ ông có giao cho ông V đi quan hệ với ông Tám Bình để mua ao cá của ông Năm X , tiền bạc mẹ ông trả. Đến năm 2003 mẹ ông kêu ông V cho đất, ông V ở nhà chính phần nhà đã cất rồi, ông N ở phần đất trống kế bên. Mẹ ông kêu phần ai người ấy đăng ký.Ông N đi đăng ký phần đất chưa cất nhà và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Phần đất của ông V tự đăng ký ông không rõ năm nào.

Năm 2012 đất của ông chuyển nhượng cho em gái tên Nguyễn Thị Thu Thanh nhưng để cho con gái là Đào Thị H đứng tên. Mẹ con cô Thanh ở trong nhà từ đó đến nay. Giá bán là 350.000.000đ. Ông lấy 150.000.000đ là giá trị căn nhà còn 200.000.000đ giá trị đất mẹ ông lấy. Sau khi lấy tiền ông V chở mẹ đi gửi ngân hàng.Số tiền này mẹ ông rút ra cho Thúy trả nợ tiền vay Ngân hàng.

Vào ngày 10/5/2019 Ủy ban nhân dân thị trấn Hậu Nghĩa có mời ông lên để thông báo về việc mở rộng lộ giới vào đất của ông ngang 8m dài 10m theo chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm. Như vậy phần ao cá mẹ ông mua, bị giải tỏa hết không còn, không có đền bù.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Thu Th trình bày trong biên bản làm việc ngày 03/6/2019: bà làem ruột của ông V và ông N. Đào Thị H là con gái bà. Hiện nay mẹ con bà đang ở trong căn nhà có đất đang tranh chấp. Năm 2012 bà có mua nhà đất của ông N diện tích 136m2 giá 350.000.000đ nhưng để cho con gái đứng tên. Bà giao cho ông N 200.000.000đ tiền mặt.Nhờ ông N vay 150.000.000đ để trả cho ông N.Việc mua nhà anh chị em trong gia đình đều biết.Ông N vay tiền tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Việc chuyển nhượng chỉ lập giấy tay, không lập hợp đồng công chứng, chưa làm thủ tục sang tên. Việc ông V khởi kiện ông N trả lại diện tích đất 86,40m2 (ngang 3,6m dài 24m) thuộc thửa 487, tờ bản đồ số 13 bà không đồng ý. Bà sẽ thực hiện quyền tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông N trong thời hạn 10 ngày.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Đào Thị H thống nhất lời trình bày của bà Phan Thị Thu Th.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòacó ý kiến tại văn bản ngày 02/8/2017 như sau:

Ngày 27/8/2002, Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Phan Thành N diện tích 136m2 thửa 489, loại đất thổ (T), tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại thị trấn Hậu Nghĩa. Đến ngày 28/8/2003 ông Phan Thành N có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Ngày 23/9/2003 Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận cho hộ ông N diện tích 136m2 tha 489, loại đất thổ (T), tờ bản đồ số 13. Trong đó, diện tích nhà ở (diện tích xây dựng) là 33,48m2, đất tọa lạc tại thị trấn Hậu Nghĩa. Việc cấp là căn cứ vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N, theo đề nghị tại tờ trình số 89/TT-UB ngày 27/8/2003 của Ủy ban nhân dân thị trấn Hậu Nghĩa. Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật và xin vắng mặt.

Tại Công văn số 3206 ngày 23/4/2018 Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cho biết qua kết quả kiểm tra hồ sơ thể hiện: Ông Phan Thành N được Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 25/9/2003 diện tích 149,5m2 với thửa 489, loại đất thổ (T), tờ bản đồ số 13 tọa lạc tại Ô 5 khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa. Ông Phan Ngọc V được Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 26/4/2013 diện tích 100m2 tại thửa 489, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại Ô 5, khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa.

Theo biên bản kiểm tra hiện trạng thực tế do Phòng Tài nguyên và Môi trường lập ngày 17/4/2018, ông Phan Thành N đang quản lý sử dụng thửa đất 487, tờ bản đồ số 13, đất tọa lạc tại thị trấn Hậu Nghĩa. Hiện trên thửa đất có một căn nhà cấp 4 ông N sử dụng từ năm 2002 đến nay.

Người làm chứng ông Nguyễn Văn Xách khai ngày 10/7/2019 như sau:

Khong thời gian nào không nhớ, vợ chồng ông có “bán” cho ông Phan Văn B một cái ao rộng khoảng 10m dài bọc hậu ra phía sau. Việc ông B có hùn vàng mua với ông Phan Ngọc V hay không ông không biết. Giá bao nhiêu vàng cũng không nhớ. Phần phía sau nhà của ai người ấy sử dụng.

Người làm chứng ông Phan Văn B trình bày tại biên bản xác minh ngày 15/3/2019. Khoảng năm 1996 ông và ông V có hùn “mua” của ông Năm X một diện tích đất “đìa” bọc phía sau đất ở của ông, ông Hết và ông V giá 4 chỉ vàng 24k. Sau đó ông V nhượng đất phía sau nhà ông Hết cho ông Hết. Thời điểm hùn mua cái “đìa” phía trước đã có đất ông N, ông Vân. Nội dung được thể hiện như giấy tay lập ngày 21/9/2014. Chỉ có ông B và ông V mua cái ao chứ không có ai khác mua.

Người làm chứng ông Trừ Văn H trình bày ngày 15/3/2019: Khong năm 1995 ông có chuyển nhượng của ông V phần phần đất ngang 6m và phần ao phía sau của ông V như giấy tay có xác nhận ngày 21/9/2014. Sau khi nhượng đất, ông V còn lại một phần đất ao phía sau.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 13/2020/DS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2020, Toà án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phan Ngọc V đối với ông Phan Thành N về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

1.1. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 036982 ngày 27/8/2002 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp cho ông Phan Thành N thửa đất 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 136m2 tại Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

1.2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 25/9/2003 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp cho ông Phan Thành N thửa đất 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 136m2 tại Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

2. Bác yêu cầu của Phan Ngọc V buộc ông Phan Thành N di dời nhà vệ sinh, mái che và công trình trên đất thuộc một phần thửa 487 có vị trí 2 và 3 theo Mảnh trích đo địa chính số 137-2020 ngày 27/4/2020 của Công ty TNHH đo đạc Nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức Hòa duyệt ngày 05/5/2020.

2.1. Buộc ông Phan Thành N phải trả cho ông Phan Ngọc V giá trị diện tích 59,2m2 đất là 139.356.800đ (một trăm ba mươi chín triệu ba trăm năm mươi sáu ngàn tám trăm đồng).

2.2. Ông Phan Thành N được tiếp tục sử dụng diện tích đất 59,2m2 thuc một phần thửa đất số 487, tờ bản đồ số 13 gồm: vị trí 2 diện tích 34,7m2 và vị trí số 3 diện tích 24,5m2 (phần còn lại sau khi trừ 12m2 diện tích giải tỏa). Tứ cận theo Mảnh trích đo địa chính ngày 27/4/2020 của Công ty TNHH đo đạc Nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức Hòa duyệt ngày 05/5/2020.

2.3. Ông Phan Thành N được kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất diện tích được giao sử dụng và diện tích đất không tranh chấp thuộc thửa đất số 487, tờ bản đồ số 13 tại số ... Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An quy định tại khoản 2 Điều 170 và khoản 3 Điều 100 của Luật đất đai năm 2013.

3. Hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 07/2019/QĐ- BPKCTT ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Ông Phan Ngọc V được nhận lại 50.000.000đ tài sản bảo đảm gửi tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triện Việt Nam - Chi nhánh Long An theo Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 06/2020/QĐ-BPBĐ ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại chỗ,án phí, thi hành án, quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày23/7/2020, bị đơn kháng cáo đề nghị không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Ngày 27/7/2020, nguyên đơn kháng cáo chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Phía nguyên đơn trình bày: đề nghị phía bị đơn giao trả lại diện tích đất, không chấp nhận nhận giá trị đất bằng tiền.

Bị đơn cùng luật sư trình bày: kháng cáo toàn bộ bản án,và trình bày phần đất được mua bằng tiền của mẹ bị đơn, bị đơn sử dụng từ trước đến nay và đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất. Về tố tụng cấp sơ thẩm có những sai sót: đơn khởi kiện của ông V yêu cầu trả lại phần đất thuộc thửa 489 nhưng cấp sơ thẩm lại giải quyết đối với tranh chấp thuộc thửa 487 là vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời hiện nay phần đất tranh chấp đã đuợc giải phóng một phần có sự thay đổi so với hiện trạng khi xét xử sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại cho phù hợp hiện trạng thực tế.

Đại diện Viện kiểm sát trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự đã tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung kháng cáo:Các chứng cứ có trong hồ sơ như lời khai của ông Tám Bình trình bày việc mẹ ông V có đưa tiền cho ông V để mua đất thửa phía sau nhà từ ông Năm X , sau khi mua về ông N sử dụng phần đất phía sau giáp với phần nhà bà cho ông N từ trước, sau đó ông N cất thêm nhà, lợp mái và xây nhà về sinh trên phần đất này, phần này giáp vớí nhà của ông V nhưng ông V không phản đối, sau đó ông N kê khai đăng ký và được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất toàn bộ phần nhà (cả phần đất mua thêm). Năm 2012 ông N bán toàn bộ nhà đất cho bà Thanh (là em ruột) và đưa tiền cho mẹ, ông V có biết và chở bà đem 200.000.000 đi gửi Ngân hàng, với những phân tích trên, xét thấy trình bày của ông N về việc ông V chỉ là người đại diện cho mẹ đi mua đất là phù hợp với thực tế khách quan.

Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông N, không chấp nhận kháng cáo của ông Vân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu và thẩm tra các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét về nội dung vụ án như sau:

[1]Đơn kháng cáo của ông Phan Ngọc V và ông Phan Thành N làm trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận xem xét.

[2] Xét kháng cáo của ông Phan Thành N và ông Phan Ngọc V:

[2.1] Ông N kháng cáo cho rằng đối với phần đất có vị trí 2 và3 mảnh trích đo địa chính ngày 27/4/2020 do Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa lập có diện tích còn lại là 71,2m2do ông đang sử dụng có nguồn gốc do mẹ ông là người bỏ tiền ra mua và cho ông, đề nghị bác yêu cầu của nguyên đơn đồng thời có trình bày cấp sơ thẩm có sai sót về tố tụng, xét xử không đúng yêu cầu của nguyên đơn, ông V kháng cáo đề nghị nhận lại đất, không chấp nhận việc nhận bồi thường theo giá trị đất. Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

Tuy việc xác định tên thửa đất tranh chấp có sự nhầm lẫn nhưng tại tòa các bên đều thống nhất thửa đất hai bên tranh chấp được xác định như đã mô tả ở phần trên, do đó cấp sơ thẩm điều chỉnh lại vị trí tranh chấp thuộc thửa 487 là phù hợp.

Các chứng cứ có trong hồ sơ như lời khai của ông Tám Bình trình bày việc mẹ ông V có đưa tiền cho ông V để mua đất thửa phía sau nhà từ ông Năm X , sau khi mua về ông N sử dụng phần đất phía sau giáp với phần nhà mẹ ông N cho ông N từ trước, sau đó ông N cất thêm nhà, lợp mái và xây nhà về sinh trên phần đất này, phần này giáp vớí nhà của ông V nhưng ông V không phản đối, sau khi sử dụng một thời gian ông N kê khai đăng ký và được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất toàn bộ phần nhà (cả phần đất mua thêm). Năm 2012 ông N bán toàn bộ nhà đất cho bà Thanh (là em ruột) và đưa tiền cho mẹ, ông V có biết và chở bà đem 200.000.000đ đi gửi ngân hàng.

Với những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy trình bày của ông N về việc ông V chỉ là người đại diện cho mẹ đi mua đất là phù hợp với thực tế khách quan. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Phan Thành N, không chấp nhận 1 phần yêu cầu khởi kiện của ông Phan Ngọc V tranh chấp đối với phần đất nói trên. Với nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của phía ông N và luật sư về việc xem xét lại hiện trạng phần đất tranh chấp là không cần thiết.

[2.2] Đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận cấp cho ông Phan Thành N tại thửa đất 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 136m2 tại Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xét thấy:

Các bên đều thừa nhận việc cấp giấy có sự nhầm lẫn, ông N thực tế đang sử dụng thửa đất 487, tờ bản đồ số 13, đất tọa lạc tại thị trấn Hậu Nghĩa trên đất có căn nhà cấp 4. Riêng thửa 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 100m2 ông Phan Ngọc V là người đang quản lý sử dụng được Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BO 615159 ngày 26/4/2013. Việc Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông N vào thửa đất 489 diện tích 136m2 sau đó cấp đổi thành giấy quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở ngày 25/9/2003 tọa lạc tại Ô 5 khu B, thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa là không đúng đối tượng.

Nội dung Công văn số 3206 ngày 23/4/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa phù hợp với Biên bản xác minh của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đức Hòa ngày 17/4/2018 và Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 20/7/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thể hiện: trên thửa đất 487, tờ bản đồ số 13, trên thửa đất có một căn nhà cấp 4 ông N sử dụng từ năm 2002 đến nay. Ông V là người được cấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa 488 diện tích 149,5m2 và là người được người đang quản lý sử dụng thửa 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 100m2 được Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BO 615159 ngày 26/4/2013.

Như vậy, việc Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông N là nhầm lẫn, không đúng đối tượng. Do đó, ông V khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W036982 ngày 27/8/2002 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 25/9/2003 đối với thửa đất 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 136m2 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa là có căn cứ.

[3] Về chi phí thẩm định, đo đạc và định giá: 35.800.000đ. Ông V nộp 19.200.000đ; ông N nộp 16.600.000đ. Áp dụng Điều 157 và Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nguyên đơn, bị đơn cùng phải chịu. Ông N và ông V đã nộp xong.

[4] Căn cứ những nhận định nêu trên, quan điểm của Viện kiểm sát là có căn cứ, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Ngọc V;chấp nhận kháng cáo của ông Phan Thành N, ông N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Do yêu cầu không được chấp nhận một phần, ông V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm loại không giá ngạch là 300.000 đ.

Đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của ông V được chấp nhận, ông N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm loại không có giá ngạch là 300.000đ.

Do kháng cáo không được chấp nhận, ông V phải chịu 300.000 đ án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào Khoản 2Điều 308 Bộ luật Tố Tụng dân sự năm 2015 Không chấp nhận kháng cáo của ông Phan Ngọc V, chấp nhận kháng cáo của ông Phan Thành N, sửa một phần bản án sơ thẩm số 13/2020/DS-ST ngày 13 tháng 7 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Long An.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phan Ngọc V đối với ông Phan Thành N về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

1.1. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 036982 ngày 27/8/2002 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp cho ông Phan Thành N thửa đất 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 136m2 tại Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

1.2. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 25/9/2003 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa cấp cho ông Phan Thành N thửa đất 489, tờ bản đồ số 13 diện tích 136m2 tại Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

2. Bác yêu cầu của Phan Ngọc V tranh chấp diện tích đất thuộc một phần thửa 487 có vị trí 2 và 3 theo Mảnh trích đo địa chính số 137-2020 ngày 27/4/2020 của Công ty TNHH đo đạc Nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức Hòa duyệt ngày 05/5/2020.

2.2. Ông Phan Thành N được tiếp tục sử dụng diện tích đất 59,2m2 thuc một phần thửa đất số 487, tờ bản đồ số 13 gồm: vị trí 2 diện tích 34,7m2 và vị trí số 3 diện tích 24,5m2 (phần còn lại sau khi trừ 12m2 diện tích giải tỏa). Tứ cận theo Mảnh trích đo địa chính ngày 27/4/2020 của Công ty TNHH đo đạc Nhà đất Trung Nghĩa được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Đức Hòa duyệt ngày 05/5/2020.

2.3. Ông Phan Thành N được kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở gắn liền diện tích 136 m2 hiện đang sử dụng thuộc thửa đất số 487, tờ bản đồ số 13 tại số ... Ô 5 Khu B thị trấn Hậu Nghĩa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An quy định tại khoản 2 Điều 170 và khoản 3 Điều 100 của Luật đất đai năm 2013.

3. Hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 07/2019/QĐ- BPKCTT ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Ông Phan Ngọc V được nhận lại 50.000.000đ tài sản bảo đảm gửi tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triện Việt Nam - Chi nhánh Long An theo Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 06/2020/QĐ-BPBĐ ngày 02/5/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

4. Về chi phí đo đạc, thẩm định, định giá: 35.800.000đ. Ông Phan Thành N phải chịu và nộp 16.600.000đ. Ông Phan Ngọc V nộp 19.200.000đ.Đã nộp xong.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Phan Ngọc V phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.800.000đ,theo biên lai thu số 0000966 ngày 13/6/2017 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Long An. Hoàn lại cho ông V số tiền là 2.500.000 đ.

Ông Phan Thành N phải chịu phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Phan Ngọc V phải chịu 300.000 đ án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào 300.000 đ tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số 0008515 ngày 27/7/2020 của Cục Thi hành án dân sự Tỉnh Long An. Ông V đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Ông Phan Thành Nkhông phải chịu án phí dân sự phúc thẩm hoàn trả cho ông N 300.000đ tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số 0008512 ngày 23/7/2020 của Cục Thi hành án dân sự Tỉnh Long An.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

415
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2021/DSPT ngày 22/01/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:44/2021/DSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;