Bản án 44/2019/HS-PT ngày 06/12/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 44/2019/HS-PT NGÀY 06/12/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 06 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 60/2019/TLPT - HS ngày 03/10/2019 đối với bị cáo Trịnh Bá V do có kháng cáo của bị cáo Trịnh Bá V, kháng cáo của Người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thuý H và Phạm M là ông Phạm Anh Tuấn, kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Phan Q đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 27/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo: Trịnh Bá V, sinh ngày 30/12/1994 Nơi cư trú: Tổ G, phường X, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Bá Tuấn (đã chết) và bà Đinh Thị Lan; vợ con: chưa có;

Tiền án: có 01 tiền án: Tại bản án hình sự số 53/2015/HSST, ngày 07/7/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, Xử phạt Trịnh Bá V 33 tháng tù về tội “cưỡng đoạt tài sản”.

Tiền sự: không;

Nhân thân năm 2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình tuyên phạt 36 tháng tù về tội Cướp tài sản. Ngày 19/7/2014, bị Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Hòa Bình khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 điều 104 BLHS; ngày 11/9/2014, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hòa Bình quyết định đình chỉ vụ án đối với Trịnh Bá V;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 19/5/2018 đến nay, được trích xuất có mặt tại phiên toà.

- Bị hại:

1. Cháu Phạm Thúy H, sinh năm 1998 (đã chết) 2. Cháu Phạm M, sinh năm 2012 Nơi cư trú: D, K, huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội - Người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thúy H và Phạm M là: Ông Phạm Anh Tuấn, sinh năm 1969 và bà Trần Thị Thúy, sinh năm 1973; Trú tại: D, K, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Có mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Phan NG, sinh năm 1988; trú tại: Thôn Đông Nam, xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội. Vắng mặt 2. Anh Phan Q, sinh năm 1984; trú tại: Thôn Đông Nam, xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội. Vắng mặt 3. Bà Đinh Thị Lan; trú tại: Tổ G, phường X, Thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

4. Công ty Cổ phần Bảo hiểm bưu điện Tây Bắc (PTI Tây Bắc); Địa chỉ: Xóm 12, xã Sủ Ngòi, Tp Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Hữu Dũng, Ông Nguyễn Đình Huề - Luật sư văn phòng luật sư Tất Thành thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội; Địa chỉ: Số 68, đường Trần Vĩ, Phường Mai Dịch, Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Phan Q (Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án): Ông Hoàng Minh Hiển – Luật sư Văn phòng Luật sư HHM Việt Nam thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội.

Địa chỉ: Phòng 204, 205 Toà nhà 4 tầng, Công ty Hồng Hà, ngõ 109, đường Trường Trinh, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

- Người làm chứng: (Toà án không triệu tập).

1. Anh Hoàng Trung Phong, sinh năm 1982; trú tại: Thôn Năm Lu, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.

2. Anh Nguyễn Anh Dũng, sinh ngày 22/9/1989; trú tại: Tổ 29, phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng số 29/CT-VKSLS ngày 27/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình và Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 27/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ, ngày 18/5/2019, Trịnh Bá V là nhân viên quán Karaoke Tuấn Anh 36 địa chỉ tại thôn Năm Lu, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, tự ý mở tủ quầy lễ tân của quán lấy chìa khóa xe ô tô BKS 31A-4925 (chủ xe ô tô là Phan NG, sinh năm 1988, HKTT: thôn Đông Nam, xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội đã giao cho anh Phan Q, sinh năm 1984, HKTT: thôn Đông Nam, xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội, quản lý, sử dụng). Trịnh Bá V điều khiển xe ô tô đi mua cơm rang, đi cùng xe với V có Nguyễn Anh Dũng (là người làm thuê cùng V). Trịnh Bá V điều khiển xe ô tô, còn Nguyễn Anh Dũng ngồi ghế phụ đi đến quán phở Hoàng Hải thuộc địa phận K, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội để mua cơm rang. Sau khi mua cơm, V tiếp tục điều khiển xe ô tô đi về quán Karaoke Tuấn Anh 36 theo Quốc lộ 6A hướng Hà Nội đi Hòa Bình, Nguyễn Anh Dũng ngồi ghế phụ. Khi đến km 38+58 thuộc địa phận thôn Năm Lu, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình xe ô tô do V điều khiển không có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe ô tô tham gia giao thông với tốc độ cao không chú ý quan sát và không làm chủ tay lái nên đã đâm xe vào cháu Phạm Thúy H, sinh năm 1998 và Phạm M, sinh năm 2012 đều trú tại: D, K, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội đang đi bộ từ bên phải sang bên trái đường theo hướng Hà Nội - Hòa Bình. Sau khi gây tai nạn Trịnh Bá V điều khiển xe ô tô bỏ chạy về quán Karaoke Tuấn Anh 36 do Phan Q làm chủ. Sau đó, Phan Q điều khiển xe ô tô đưa V quay lại hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông. Xuống đến nơi thì nạn nhân đã được mọi người đưa đi cấp cứu. Hậu quả cháu Phạm Thúy H tử vong, cháu Phạm M bị thương nặng.

Kết quả khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra tại Km 38+58 thuộc thôn Năm Lu, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, mặt đường phẳng có dải phân cách giữa. Áp dụng cho hai chiều xe chạy. Lòng đường rộng 11,7m. Hiện trường đo về mép đường bên phải theo hướng Hà Nội – Hòa Bình. Đã xác định: điểm (A) xác định điểm va giữa xe ô tô BKS 31A-4925 và người đi bộ; trong khu vực va có mảnh vỡ nhựa của ô tô có diện 0,5m x 0,5m vào mép đường là 4,66m; tâm (1) trùng với nhau. Ngoài ra, còn xác định vị trí 02 là vị trí chiếc dép trái nhỏ màu đỏ, xanh, mũi dép hướng về Xuân Mai; Vị trí số (3) là vị trí chiếc dép trái to màu đen; Vị trí số (4) là vị trí chiếc dép phải nhỏ màu đỏ, xanh; Vị trí số (5) là vị trí chiếc dép to mầu đen, tím; vị trí số (6) là vết máu nạn nhân có diện 0,33m x 0,2m; Vị trí số (7) là vị trí từ cột mốc (lấy cột biển báo giao nhau với đường không ưu tiên) làm chuẩn, biển báo nằm bên phải lề đường theo hướng đi Hà Nội - Hòa Bình, đo từ tâm 7 đến tâm (A) và (1) là 9,35m.

Kết quả thực nghiệm điều tra ngày 19/4/2019 xác định: đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, mặt đường phẳng có dải phân cách giữa. Áp dụng cho hai chiều xe chạy. Lòng đường rộng 11,7m, hai bên có lề rộng 0,2m, rãnh thoát nước hai bên rộng 01m. Hiện trường đo về mép đường bên phải hướng đi Hà Nội – Hòa Bình. Xác định khu vực va chạm đầu tiên giữa xe ô tô BKS 31A-4925 với hai người đi bộ sang đường ký hiệu (A) có diện 0,55m x 0,55m khu vực (A) nằm phần đường Hòa Bình đi Hà Nội.

Kết quả khám nghiệm phương tiện ô tô BKS 31A-4925: loại xe ô tô khách nhãn hiệu TOYOTA HIACE, màu sơn trắng sau tai nạn để lại các dấu vết như sau: Nứt vỡ, bung bật, bẹp lõm kính chắn gió phía trước góc phía bên lái có diện 1,3m x 0,74m, trên vết bám dính có chất tổ hợp lông tóc sợi và da cơ thể người. Bẹp lõm, biến dạng nắp ca pô phía trước hướng từ trước về sau có diện 1,16m x 0,74m, trên vết bám dính chất tổng hợp lông tóc và da cơ thể người. Bung bật ốp nhựa cản gió phía trước đầu xe bên trái ra khỏi vị trí ban đầu có diện 0,86m x 0,18m, điểm thấp nhất cách mặt đất 0,78m. Bung bật toàn bộ đèn chiếu sáng, đèn tín hiệu và ốp nhựa xung quanh phía trước ra khỏi thân xe có diện 0,6m x 0,22m, điểm thấp nhất cách mặt đất 0,74m. Cong méo biến dạng biển kiểm soát phía trước hướng từ trước về sau có diện 0,22m x 0,17m, điểm thấp nhất cách mặt đất 0,45m.

Kết quả giám định pháp y số 79/GĐPY, ngày 23/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình kết luận đối với cháu Phạm Thúy H: nạn nhân chết do chấn thương sọ não.

Kết luận giám định pháp y thương tích số 5056/C09-TT1, ngày 31/10/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ công an, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của cháu Phạm M tại thời điểm giám định là 50% (năm mươi phần trăm).

Vật chứng thu giữ: 01 xe ô tô BKS 31A-4925; Thu giữ tại hiện trường: 01 đối dép có kích thước 20cm x 9 cm trên mặt dép có hình chữ SPIDERMAN (dạng dép nhựa); 01 đôi dép kích thước 23cm x 9cm. Bề mặt dép màu đen (dạng dép nhựa); 01 mảnh nhựa màu đen có kích thước 17cm x 13cm của ô tô BKS 31A – 4925.

Về trách nhiệm dân sự: ông Phạm Anh Tuấn là người đại diện cho bị hại Phạm Thúy H và Phạm M yêu cầu bồi thường số tiền là 586.292.779 đồng (Năm trăm tám mươi sáu triệu, hai trăm chín mươi hai nghìn bảy trăm bảy mươi chín đồng). Hiện tại gia đình bị cáo Trịnh Bá V đã hỗ trợ gia đình bị hại 5.000.000 đồng và tự nguyện nộp tại cơ quan điều tra để bồi thường thêm số tiền là 5.000.000 đồng (số tiền đã được chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Sơn). Tổng cộng là 10.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HS- ST ngày 27/8/2019 Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình quyết định:

1. Tuyên bố: bị cáo Trịnh Bá V Phạm tội “vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Áp dụng điểm a, c khoản 2 điều 260; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trịnh Bá V 6 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 19/5/2018.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng 48 Bộ luật hình sự; điều 590, điều 591, điều 601 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Trịnh Bá V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phan Q phải liên đới bồi thường cho người bị hại Phạm M và đại diện người bị hại ông Phạm Anh Tuấn và bà Trần Thị Thúy tổng số tiền là 440.378.059 đồng. Theo đó bị cáo Trịnh Bá V phải bồi thường 293.585.373đồng (Hai trăm chín mươi ba triệu năm trăm tám mươi năm nghìn ba trăm bảy mươi ba đồng), xác nhận gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 5.000.000 đồng và nộp thêm số tiền 5.000.000đồng tại cơ quan công an, số tiền trên đã được chuyển đến cơ quan thi hành án dân sự huyện Lương Sơn theo biên lai thu tiền số 04134 ngày 13/3/2019 của chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn. Bị cáo được khấu trừ số tiền trên, bị cáo Trịnh Bá V còn phải tiếp tục thi hành số tiền 283.585.373 đồng (Hai trăm tám mươi ba triệu năm trăm tám mươi năm nghìn ba trăm bảy mươi ba đồng); Anh Phan Q phải bồi thường số tiền 146.792.686 đồng (một trăm bốn mươi sáu triệu, bảy trăm chín hai nghìn sáu trăm tám sáu đồng) cho bị hại Phạm M và đại diện bị hại ông Phạm Anh Tuấn và bà Trần Thị Thúy.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và người thi hành có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thực hiện việc thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi cho người được thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 16/9/2019 bị cáo Trịnh Bá V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 09/9/2019 ông Phạm Anh Tuấn là Người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thuý H và Phạm M có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung đề nghị cấp phúc thẩm: Không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 điều 51 BLHS đối với bị cáo Trịnh Bá V; Tăng hình phạt đối với bị cáo V; Đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Phan Q về tội “giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ” theo điều 264 BLHS; Phan Q phải là người chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại; Chấp nhận toàn bộ chi phí mà gia đình đã kê khai tổng thiệt hại sau khi trừ đi các khoản bảo hiểm đã chi trả là 586.292.779 đồng.

Ngày 09/9/2019 Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Phan Q có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về việc buộc anh phải liên đới bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 146.792.686 đồng.

Trước khi xét xử phúc thẩm, ngày 04/12/2019 anh Nguyễn Q có đơn rút toàn bộ kháng cáo.

Tại giai đoạn phúc thẩm ông Phạm Anh Tuấn đề nghị bồi thêm: Chi phí châm cứu, bấm huyệt: 8 tháng x 6.000.000 đồng (từ tháng 8/2018 đến tháng 5/2019) = 48.000.000 đồng (bốn mươi tám triệu đồng); Chi phí mua thuốc:

35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng); Chi phí hợp lý cho bà Trần Thị Thuý (là mẹ đẻ cháu Minh) nghỉ làm 15 tháng để thường xuyên chăm sóc cháu Phạm M: 15 tháng x 7.000.000 đồng = 105.000.000 đồng (từ tháng 9/2018 đến tháng 11/2019). Đồng thời ông Tuấn cung cấp đơn yêu cầu bồi thường đề ngày 12/11/2019 có xác nhận của UBND K và đơn xin xác nhận của bà Trần Thị Thuý có xác nhận của Trường tiểu học và trung học cơ sở Nhuận Trạch, Xuân Mai.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Trịnh Bá V, Người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thuý H và Phạm M là ông Phạm Anh Tuấn giữ nguyên kháng cáo.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:

Đề nghị HĐXX:

Áp dụng Điều 342, 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của Phan Q.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận một phần kháng cáo của Người đại diện hợp pháp của bị hại, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận một phần kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 27/8/2019 của Toà án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình theo hướng:

- Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 260; điểm s khoản 1 Điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trịnh Bá V từ 07 năm đến 08 năm tù giam.

- Áp dụng điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 590, 591, 601 Bộ luật dân sự: Tăng mức bồi thường những chi phí hợp lý cho gia đình bị hại theo đơn yêu cầu ngày 12/11/2019.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại luật sư Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Đình Huề: Đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo của ông Phạm Anh Tuấn, đề nghị Hội đồng xét xử buộc anh Phan Q là người được giao quản lý xe ô tô BKS 31A – 4925 phải chịu toàn bộ thiệt hại mà gia đình bị hại yêu cầu là 586.292.779 đồng.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hòa Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ khẳng định:

khoảng 21 giờ 53 phút, ngày 18/5/2018, tại Km 38+58 đường QL 6A thuộc địa phận thôn Năm Lu, xã Hòa Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, Trịnh Bá V là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; không có giấy phép lái xe theo quy định đã điều khiển xe ô tô BKS 31A-4925 đi hướng Xuân Mai- Hòa Bình đi với tốc độ từ 52Km/h đến 66 Km/h, không chú ý quan sát đã đi lấn sang phần đường xe đi ngược chiều và đâm thẳng vào cháu Phạm Thúy H, sinh năm 1998 và cháu Phạm M, sinh năm 2012, đang đi bộ sang bên trái đường theo hướng Hà Nội - Hòa Bình. Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo đã không cứu giúp người bị nạn mà bỏ chạy khỏi hiện trường nhằm trốn tránh trách nhiệm. Hậu quả cháu Phạm Thúy H tử vong; cháu Phạm M bị tổn hại cơ thể là 50% sức khỏe.

Hành vi của Trịnh Bá V vi phạm khoản 9, khoản 17, khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định”, “bỏ trốn sau khi gây tai nạn để trốn tránh trách nhiệm”; vi phạm khoản 6 điều 5 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định các trường hợp phải giảm tốc độ (có thể dừng lại một cách an toàn) “khi có người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường”. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” với tình tiết tăng nặng định khung được quy định tại điểm a, c khoản 2 điều 260 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của người khác. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trịnh Bá V về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm a, c khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Trịnh Bá V xin giảm nhẹ hình phạt:

Hội đồng xét xử xét thấy: Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 năm tù giam là hoàn toàn tương xứng, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra, cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện hồ sơ vụ án và đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo không có tình tiết mới nên không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử cần bác đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trịnh Bá V.

[4] Xét kháng cáo của ông Phạm Anh Tuấn là Người đại diện hợp pháp của Người bị hại Phạm Thuý H và Phạm M:

Thứ nhất: Yêu cầu không áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự “ Người phạm tội thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải” đối với bị cáo Trịnh Bá V.

Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, tại phiên toà phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1, điều 51 Bộ luật hình sự. Cấp sơ thẩm khi quyết định hình phạt đối với bị cáo đã áp dụng điểm s, khoản 1, điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Thứ hai: Yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Trịnh Bá V.

Hội đồng xét xử xét thấy, như phân tích và nhận định trên, Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trịnh Bá V 06 năm tù giam là tương xứng, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại ông Phạm Anh Tuấn về tăng hình phạt đối với bị cáo.

Thứ ba: Yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Phan Q về tội “ Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ” theo Điều 264 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy: Phan Q đã được em trai là Phan NG giao xe ô tô BKS 31A-4925 cho quản lý, sử dụng nhưng đã quản lý không chặt chẽ nên bị cáo Trịnh Bá V tự động lấy xe điều khiển tham gia giao thông gây ra tai nạn, trong khi bị cáo chưa có bằng lái xe, Phan Q không trực tiếp giao xe cho bị cáo nên khi bị cáo điều khiển xe gây tai nạn anh Hùng phải có trách nhiệm liên đới bồi thường về trách nhiệm dân sự. Cấp sơ thẩm không đề cập truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Phan Q là có căn cứ.

Thứ tư: Yêu cầu bồi thường thiệt hại tổng số tiền 586.292.779 đồng (sau khi trừ đi các khoản do bảo hiểm xã hội chi trả).

Hội đồng xét xử xét thấy:

Tại cấp sơ thẩm ông Phạm Anh Tuấn đề nghị buộc bị cáo và người liên quan trong vụ án phải bồi thường tổng số tiền là 586.292.779 đồng (có bảng kê chi tiết). Căn cứ vào yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại, căn cứ các điều 590, điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 và theo tinh thần Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cấp sơ thẩm đã xác định tổng thiệt hại đối với cháu Phạm Thuý H và Phạm M là 440.378.059 đồng là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Đối với các khoản Người đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bồi thường là: Ốp đá xanh 48.000.000 đồng; tiền ăn ngày tổ chức đám hiếu 15.700.000 đồng; tiền cúng 3 ngày 6.300.000 đồng; Cúng 7 ngày ở nhà và ở chùa 24.500.000 đồng; Rước vong ra chùa 49 ngày 19.530.000 đồng; tiền ăn 49 ngày 26.760.000 đồng; cúng 100 ngày 7.200.000 đồng) là các khoản chi phí thực tế nhưng không phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại giai đoạn phúc thẩm: Ngày 12/11/2019 ông Phạm Anh Tuấn có đơn yêu cầu bồi thường thêm tổng số tiền 238.000.000 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi xét xử sơ thẩm cháu Phạm M vẫn chưa hoàn toàn bình phục do cháu bị liệt nửa người nên vẫn phải đi chữa trị, trâm cứu và phải có người thường xuyên chăm sóc nên cần chấp nhận chi phí phục hồi chức năng sau tai nạn cho cháu Minh, cụ thể:

Chi phí cho người chăm sóc: 06 tháng x 7.000.000 đồng = 42.000.000 đồng (Bốn mươi hai triệu đồng).

Đối với yêu cầu về khoản tiền chi phí trâm cứu, bấm huyệt và chi phí mua thuốc đối với cháu Minh, ông Phạm Anh Tuấn không cung cấp được hoá đơn, chứng từ nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Như vậy, Hội đồng xét xử cần xác định tổng thiệt hại đối với với cháu Phạm Thuý H và Phạm M là 482.378.059 đồng.

Thứ năm: Yêu cầu anh Phan Q phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại trong vụ án này.

Hội đồng xét xử xét thấy: trong vụ án này Phan Q là người được Dũng giao quản lý, sử dụng xe ô tô BKS 31A-4925 nhưng đã lơ là trong việc quản lý xe, khi phát hiện Trịnh Bá V điều khiển xe ô tô do mình quản lý tham gia giao thông đã không có biện pháp kịp thời ngăn chặn dẫn đến Trịnh Bá V điều khiển xe ô tô gây ra tai nạn. Căn cứ tại khoản 4 điều 601 Bộ luật dân sự và tại điểm d mục 2, phần III Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (không tuân thủ hoặc tuân thủ không đầy đủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật) thì phải liên đới cùng với người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”. Như vậy cấp sơ thẩm xác định Phan Q phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cùng với bị cáo Trịnh Bá V là có căn cứ. Do đó, kháng cáo của ông Phạm Anh Tuấn về nội dung này không có cơ sở, nên không được chấp nhận.

Trong vụ án này, bị cáo Trịnh Bá V là người có lỗi chủ yếu và trực tiếp gây ra tai nạn, Phan Q là người đã có lỗi gián tiếp trong việc quản lý phương tiện. Cấp sơ thẩm xác định bị cáo V phải bồi thường 2/3 số tiền bồi thường và Phan Q phải bồi thường 1/3 số tiền bồi thường là có căn cứ và phù hợp.

Từ những căn cứ, nhận định trên, Hội đồng xét xử cần buộc bị cáo Trịnh Bá V phải bồi thường số tiền 321.585.372 đồng, anh Phan Q phải bồi thường số tiền 160.792.686 đồng cho bị hại Phạm M, Phạm Thuý H và đại diện hợp pháp cho bị hại là ông Phạm Anh Tuấn và bà Trần Thị Thúy. Xác nhận gia đình bị cáo V đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 5.000.000 đồng và nộp thêm số tiền 5.000.000 đồng tại cơ quan công an, số tiền trên đã được chuyển đến cơ quan thi hành án dân sự huyện Lương Sơn theo biên lai thu tiền số 04134 ngày 13/3/2019 của chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn.

[5] Trước khi xét xử phúc thẩm, ngày 04/12/2019 Phan Q có đơn rút toàn bộ kháng cáo. Do đó Hội đồng xét xử đình chỉ đối với kháng cáo của Phan Q.

Từ những căn cứ, nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần:

Đình chỉ xét xử phúc thẩm toàn bộ kháng cáo của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Phan Q.

Bác toàn bộ kháng cáo của bị cáo Trịnh Bá V.

Bác một phần kháng cáo của ông Phạm Anh Tuấn là người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thuý H và Phạm M.về việc yêu cầu: Tăng hình phạt đối với bị cáo V; Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Phan Q; Buộc anh Phan Q phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Phạm Anh Tuấn là người đại diện hợp pháp cho bị hại Phạm Thuý H và Phạm M về việc yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại.

Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 27/8/2019 của Toà án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình về phần trách nhiệm dân sự. Sửa khách quan do có tình tiết mới, sau khi xét xử sơ thẩm cháu Phạm M cần có người chăm sóc để phục hồi chức năng.

[6] Về án phí: Bị cáo Trịnh Bá V phải chịu án phí hình sự phúc phẩm theo quy định.

Từ những căn cứ, nhận định trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 342; Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b, khoản 2, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

[1] Đình chỉ xét xử phúc thẩm toàn bộ kháng cáo của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Phan Q.

[2] Bác toàn bộ kháng cáo của bị cáo Trịnh Bá V.

[3] Bác một phần kháng cáo của ông Phạm Anh Tuấn là người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thuý H và Phạm M về việc: Tăng hình phạt đối với bị cáo Trịnh Bá V; Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Phan Q; Buộc Phan Q phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại.

[4] Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Phạm Anh Tuấn là người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thuý H và Phạm M về việc yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại.

[5] Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HS-ST ngày 27/8/2019 của Toà án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình về phần trách nhiệm dân sự. Cụ thể:

1. Tuyên bố: bị cáo Trịnh Bá V Phạm tội “vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Áp dụng điểm a, c khoản 2 điều 260; điểm s khoản 1 điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trịnh Bá V 06 (sáu) năm tù giam, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 19/5/2018.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; điều 590, điều 591, điều 601 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Trịnh Bá V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phan Q phải liên đới bồi thường cho bị hại Phạm M, Phạm Thuý H và đại diện hợp pháp của bị hại là ông Phạm Anh Tuấn và bà Trần Thị Thúy tổng số tiền là 482.378.059 đồng. Theo đó bị cáo Trịnh Bá V phải bồi thường 321.585.372 đồng (ba trăm hai mươi mốt triệu, năm trăm tám mươi lăm nghìn, ba trăm bảy mươi hai đồng) và anh Phan Q phải bồi thường số tiền 160.792.686 đồng (một trăm sáu mươi triệu, bảy trăm chín mươi hai nghìn, sáu trăm tám mươi sáu đồng) cho bị hại Phạm M, Phạm Thuý H và đại diện hợp pháp của bị hại là ông Phạm Anh Tuấn và bà Trần Thị Thúy.

Xác nhận gia đình bị cáo Trịnh Bá V đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 5.000.000 đồng và nộp thêm số tiền 5.000.000 đồng tại cơ quan công an, số tiền trên đã được chuyển đến cơ quan thi hành án dân sự huyện Lương Sơn theo biên lai thu tiền số 04134 ngày 13/3/2019 của chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn. Bị cáo V được khấu trừ số tiền trên, bị cáo Trịnh Bá V còn phải tiếp tục thi hành số tiền 311. 585.372 đồng (ba trăm mười một triệu, năm trăm tám mươi lăm nghìn, ba trăm bảy mươi hai đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật và người thi hành có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thực hiện việc thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi cho người được thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và điều 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về vật chứng: Căn cứ điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả cho anh Phan NG 01 xe BKS 31A-4925, 01 đăng ký xe mang tên BHC - Liên đoàn lao động quận - BĐ; kèm theo giấy kiểm định phương tiện No: KC 5403053, ngày 29/3/2018; giấy chứng nhận bảo hiểm số 000524993, ngày 08/2/2014; Chứng nhận bảo hiểm số: 0001250130 ngày 18/2/2016; chứng nhận bảo hiểm số: BB 170150897 ngày 29/3/2018 (các giấy tờ xe hiện đang được lưu theo hồ sơ vụ án, 01 xe ô tô đang lưu giữ tại cơ quan thi hành án huyện Lương Sơn).

Trả cho ông Phạm Anh Tuấn là người đại diện hợp pháp của bị hại: 01 đôi dép có kích thước 20cm x 9 cm trên mặt dép có hình chữ SPIDERMAN (dạng dép nhựa); 01 đôi dép kích thước 23cm x 9cm (dạng dép nhựa).

Tịch thu, tiêu hủy: 01 mảnh nhựa màu đen có kích thước 17cm x 13cm.

(Hiện trạng như biên bản bàn giao vật chứng ngày 17/7/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Lương Sơn với Chi cục thi hành án dân sự huyện Lương Sơn).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trịnh Bá V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm, 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm và 16.079.300 đồng tiền án phí dân sự.

Buộc anh Phan Q phải chịu 8.039.600 đồng tiền án phí dân sự. [6] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

345
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2019/HS-PT ngày 06/12/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:44/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;