Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP 

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2019/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 01 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 258, ấp B, xã Bg, huyện L, tỉnh Đ;

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1982; địa chỉ: Số 380, ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đ;

(Bà H có mặt, ông H vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bà H trình bày:

Bà H và ông H trước đây có đăng ký kết hôn vào năm 2013, năm 2014 ly hôn. Năm 2017 thì chung sống và đăng ký kết hôn lại. Sau khi chung sống thì về ở chung bên nhà vợ. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc vì do anh H chi li tính toán, không lo cho vợ con. Bà H và ông H chính thức ly thân nhau từ tháng 4/2018. Nhận thấy tình cảm không còn nên bà H yêu cầu xin ly hôn với ông Hậu.

Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Khả N, sinh ngày 22/02/2018, hiện sống với bà H từ khi vợ chồng xa nhau đến nay. Bà H yêu cầu tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Nếu trường hợp Tòa án giải quyết giao con cho ông H nuôi dưỡng thì bà H không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản hòa giải, biên bản lấy lời khai của Tòa án, ông H trình bày:

Ông H và bà H trước đây có đăng ký kết hôn vào năm 2013, năm 2014 ly hôn. Năm 2017 thì chung sống và đăng ký kết hôn lại. Sau khi chung sống thì về ở chung bên nhà vợ. Quá trình sống chung do khắc khẩu nên hay xung khắc cãi nhau trong cách nói chuyện, chứ vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn. Ông H đi làm đều đưa hết tiền cho bà H, chỉ giữ tiền xài vặt, chứ không tính toán chi li như bà H nói. Do bà H nói ông H chi li nên cự cãi rồi không chung sống từ tháng 4/2018 đến nay. Tháng 10/2018 khi bà H nộp đơn xin ly hôn, ông H muốn đoàn tụ thì bà H rút đơn. Tuy nhiên, do ông Hậu phải đi Phú Quốc làm để kiếm tiền lo cho vợ con nên ông H không tới lui để hàn gắn với bà H, cả năm nay không gặp mặt nhau. Đưa tiền bà H cũng không lấy. Nay ông H xác định vợ chồng không mâu thuẫn gì nên không đồng ý ly hôn. Quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Khả N, sinh ngày 22/02/2018, hiện sống với bà H từ khi vợ chồng xa nhau đến nay. Nếu trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn thì ông H yêu cầu bà H giao con cho ông H nuôi dưỡng, ông H không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp giao con cho bà H nuôi thì ông H không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Cho bà H ly hôn. Con chung bà H nuôi dưỡng, bà H không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ông H đang sinh sống tại ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 28; Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Ông H được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng vắng mặt không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Bà H và ông H chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Bình Thạnh Trung cấp giấy chứng nhận kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp.

Tuy nhiên, vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn và xa nhau từ tháng 4 năm 2018 đến nay. Quá trình chung sống có 02 con chung, nhưng khi xảy ra mâu thuẫn cả hai không cùng nhau cố gắng, chia sẻ, vượt qua khó khăn mà mỗi người tự lo cuộc sống riêng. Ông H bỏ đi tự lo cho bản thân, không quan tâm, chăm sóc cho con mà để một mình bà Hạnh nuôi dưỡng. Mặc dù bà H đã có lần nộp đơn xin ly hôn, ông Hậu hứa khắc phục nhưng không lần nào gặp bà H để hàn gắn, lần này bà H nộp đơn xin ly hôn lại thì ông H cũng bỏ đi làm không quan tâm tới. Xét thấy, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc phải xuất phát từ sự tự nguyện, quan tâm, yêu thương, chăm sóc, chia sẻ cho nhau, phải cùng chung sống vượt qua khó khăn, xây dựng mái ấm gia đình. Nhưng bà H và ông H không làm được điều đó. Nay bà H xin ly hôn, ông H không đồng ý nhưng không có động thái nào để hàn gắn, do đó đã vi phạm vào Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về tình nghĩa vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.”

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy yêu cầu xin ly hôn của bà H là có căn cứ. Đề nghị của Kiểm sát viên cho ly hôn là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, xác định bà H và ông H 01 con chung tên Huỳnh Khả N, sinh ngày 22/02/2018, hiện sống với bà H từ khi vợ chồng xa nhau đến nay.

Xét thấy: Con chung do bà H nuôi dưỡng từ khi sinh ra, hiện cháu vẫn phát triển, khỏe mạnh bình thường, chứng tỏ bà H đủ điều kiện nuôi con, do đó, giao con cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nên không xem xét.

[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: Bà H và ông H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà H xin ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 19, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 39, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Phạm Thị H. Bà Phạm Thị H được ly hôn với ông Huỳnh Văn H.

 2. Về nuôi con chung: Giao con chung tên Huỳnh Khả N, sinh ngày 22/02/2018, hiện sống với bà H cho bà H nuôi dưỡng, bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Ông H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Bà H và các thành viên trong gia đình không được cản trở.

3. Về chia tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Bà H tự nguyện nộp đủ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2017/0006980 ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò.

6. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;