TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 437/2022/DS-PT NGÀY 23/11/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY VỐN
Ngày 23 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 343/2022/TLPT-DS ngày 06 tháng 10 năm 2022, về việc: “Tranh chấp Hợp đồng vay vốn”.
Do bản án sơ thẩm số 101/2022/DS-ST ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 418/2022/QĐ-PT ngày 21/10/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 468/2022/QĐHT-PT ngày 08 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Bà Đào Thị Thanh H, sinh năm 1975; trú tại: Số X, quận Y, quận T, Thành phố Hà Nội; pháp nhân đại diện theo ủy quyền: Công ty Luật TNHH MTV S; địa chỉ: Khu đô thị M, phường M, quận Đ, Thành phố Hà Nội (theo văn bản ủy quyền ngày 01/3/2021); người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Hồng S - Giám đốc; người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn V, bà Bùi Thu H (theo Quyết định ngày 17/6/2022).
2/ Bị đơn: Công ty Cổ phần TX (PO); trụ sở: Số Z phố C, phường LT, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội; địa chỉ liên hệ: DT, phường DVH, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội; người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Phú B - Tổng Giám đốc; người đại diện theo ủy quyền (theo Văn bản ủy quyền ngày 03/3/2022):
1. Ông Trịnh Quang C; trú tại: đường H, phường NH, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.
2. Ông Bùi Hoài T; trú tại: đường H, phường NH, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
Theo đơn khởi kiện ngày 04/10/2021 của bà Đào Thị TH và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án do bà Bùi Thu H đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Bà Đào Thị TH nguyên là nhân viên của Công ty Cổ phần TX (sau đây gọi tắt là Công ty TX). Năm 2008, khi Công ty TX gặp khó khăn cần huy động vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh, bà đã cho Công ty TX vay vốn bằng khoản tiền lương mà Công ty TX nợ bà.
Ngày 26/3/2008, giữa bà Đào Thị TH và Công ty TX ký Hợp đồng vay vốn số 130/2008/PTICC-HĐVV có nội dung: Số tiền vay 67.086.401đ; mục đích vay là phục vụ sản xuất kinh doanh theo phương án huy động vốn năm 2008; biện pháp bảo đảm là tín chấp; thời hạn vay là 24 tháng kể từ ngày 27/3/2008; lãi suất áp dụng cho khoản vay từ 27/3/2008 đến 26/3/2009 là 8,5%/năm; lãi suất áp dụng cho khoản vay từ 27/3/2009 sẽ áp dụng theo lãi suất trái phiếu Chính Phủ (do Ngân hàng Phát triển Nhà nước Việt Nam phát hành loại thời hạn 5 năm) kỳ gần nhất liền trước ngày 27.3.2009; tiền gốc, lãi được thanh toán làm 02 đợt: Đợt 1, ngày 27/3/2009 thanh toán 50% nợ gốc + lãi; đợt 2, ngày 27/3/2010 thanh toán hết nợ gốc + lãi.
Năm 2012, hai bên ký Phụ lục 01 - Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên để xác nhận lại số tiền vay giảm xuống vì giảm doanh thu quyết toán Công ty TX trong giai đoạn 2008 - 2010 do các cơ quan thanh tra kiểm tra xác định lại quỹ tiền lương, số tiền lương Công ty TX phải trả cho người lao động từ 2004 - 2007 và trừ thuế thu nhập cá nhân, các quỹ người lao động phải nộp năm 2008. Phụ lục xác định số tiền gốc vay là 21.585.325đ, lãi phải trả đến 31/12/2011, dự kiến trả hết nợ gốc và lãi vào 31/12/2014.
Công ty TX đã trả bà Đào Thị TH 18.573.000đ nợ gốc, cụ thể: Ngày 31/12/2008, Công ty TXtrả 3.595.000đ; ngày 31/12/2009, Công ty TX trả 5.813.000đ; ngày 31/12/2010, Công ty TX trả 2.405.000đ; ngày 10/10/2012, Công ty TX trả 3.000.000đ; ngày 24/10/2012, Công ty TX trả 732.000đ; ngày 31/12/2014, Công ty TX trả 732.000đ; ngày 06/5/2015, Công ty TX trả 732.000đ; ngày 02/10/2015, Công ty TXtrả 732.000đ; ngày 30.12.2015, Công ty TXđã trả 832.000đ. Công ty TXcòn nợ gốc là 3.012.325đ.
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng vay vốn và Phụ lục 01, Công ty TX không thanh toán đúng thỏa thuận qua việc chỉ trả một phần gốc và trả không đúng hạn, không trả lãi vay.
Ngày 16/9/2019, bà Đào Thị TH nhận được văn bản của Công ty TX yêu cầu mang Hợp đồng vay vốn và Phụ lục 01 đến đối chiếu, ký xác nhận vào bảng số liệu nợ gốc tính đến ngày 30/8/2019 do Công ty TXlập. Công ty TX cam kết thanh toán cho các hợp đồng hoàn hiện thanh lý trước ngày 15/11/2019. Tuy nhiên sau đó Công ty TX không thực hiện thanh toán. Hiện bà Đào Thị TH không còn giữ văn bản ngày 16/9/2019 của Công ty TX do bị thất lạc.
Nay bà Đào Thị TH khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc Công ty TXphải thanh toán cho bà Đào Thị TH nợ gốc là 3.012.325đ, nợ lãi từ 27/3/2008 đến 31/12/2011 (đã được xác nhận tại Phụ lục 01 năm 2012) là 4.863.985đ, nợ lãi từ 01/01/2012 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 8,5%/năm là 3.856.633đ. Tổng cộng là 11.732.943đ. Ngoài ra nguyên đơn không còn yêu cầu gì khác.
Bị đơn là Công ty TX do ông Trịnh Quang C, ông Bùi Hoài T đại diện theo ủy quyền đã gửi các văn bản nêu ý kiến như sau:
Công ty TXtiền thân là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc VNPT. Năm 2016, sau cổ phần hóa, Công ty TXđược chuyển giao từ doanh nghiệp Nhà nước thành doanh nghiệp tư nhân. Theo hồ sơ còn lưu lại tại Công ty TX, năm 2008, Công ty TXthời điểm đó là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc VNPT đã ký Hợp đồng vay vốn với một số cán bộ, nhân viên trong Công ty, hợp đồng vay có thời hạn 02 năm từ tháng 10/2008 đến tháng 10/2010. Năm 2016, sau khi chuyển quyền sở hữu từ doanh nghiệp Nhà nước sang doanh nghiệp tư nhân. Ban lãnh đạo Công ty TXnhận thấy có nhiều dấu hiệu bất thường tại các hợp đồng vay vốn nói trên như: Không có phiếu nộp tiền về Quỹ của Công ty; dòng tiền vay của cán bộ; nhân viên không biết đi đâu, sử dụng vào mục đích gì; nhiều hợp đồng ký trong giai đoạn này được ký kết nhưng không được thực hiện; nhiều hợp đồng ký kết khi chưa có chủ trương đầu tư nhưng đều được kê khai doanh số.
Vì các lý do nêu trên, Công ty TXđã tạm dừng chi trả các khoản lãi, vốn để điều tra xác minh. Trong quá trình điều tra, xác minh Công ty nghi ngờ các Hợp đồng vay vốn giữa Công ty TXvà ông/bà nêu trên là Hợp đồng giả tạo, Ban lãnh đạo cũ của Công ty TXtrong giai đoạn từ năm 2008 đến 2015 có dấu hiệu cấu kết với một số cá nhân trong Công ty để tạo dựng chứng từ giả với mục đích chiếm đoạt tài sản Nhà nước và các mục đích khác như: Khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp; hợp thức hóa các khoản tiền tồn quỹ Công ty từ các Hợp đồng kinh tế không có thật; tăng nguồn vốn của Công ty để lấy thành tích và trục lợi. Công ty TXđã nhiều lần mời các cá nhân liên quan đến Hợp đồng vay vốn đến làm việc và yêu cầu xuất trình các giấy tờ liên quan như phiếu thu, giấy nộp tiền về quỹ của Công ty để chứng minh đây là khoản nợ có thật nhưng các cá nhân này đều trốn tránh, không đến làm việc và không cung cấp được giấy tờ nêu trên.
Công ty TXđề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của nguyên đơn, xác minh khoản vay theo hợp đồng vay vốn, xác minh có dấu hiệu tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước tại Công ty TXgiai đoạn từ năm 2004 đến năm 2015. Đề nghị đưa ông Hoàng Ứng Huyền nguyên Giám đốc Công ty TXđã ký Hợp đồng vay vốn tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập nhưng ông Trịnh Quang Chiến và ông Bùi Hoài Thanh đều vắng mặt, không nộp tài liệu chứng cứ.
Tại bản án sơ thẩm số 101/2022/DS-ST ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội đã xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào Thị TH đối với Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng TX (PO).
2. Buộc Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng TX (PO) phải thanh toán cho bà Đào Thị TH số tiền nợ gốc là 3.012.325đ, nợ lãi từ ngày 27.3.2008 đến ngày xét xử là 8.720.618đ. Tổng cộng là 11.732.943đ (mười một triệu, bảy trăm ba mươi hai nghìn, chín trăm bốn mươi ba đồng).
Ngoài ra, bản án còn quyết định xử lý tiền tạm ứng án phí, tuyên án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau phiên toà sơ thẩm, ngày 25/7/2022, ông Trịnh Quang C, ông Bùi Hoài T - người đại diện theo ủy quyền của bị đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm số 101/2022/DS-ST ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hoặc bác yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, nhất trí với bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.
Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt.
Các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý vụ án đến phiên toà xét xử vụ án.
Về nội dung: Sau khi phân tích các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình diễn biến tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của bị đơn, áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm số 101/2022/DS-ST ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quyền khởi kiện:
Theo đơn khởi kiện của bà Đào Thị Thanh H đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng TX (PO) phải thanh toán cho bà Đào Thị TH nợ gốc là 3.012.325đ, nợ lãi từ 27/3/2008 đến 31/12/2011 (đã được xác nhận tại Phụ lục 01 năm 2012) là 4.863.985đ, nợ lãi từ 01/01/2012 đến ngày xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 8,5%/năm là 3.856.633đ. Tổng cộng là 11.732.943đ.
Yêu cầu của nguyên đơn nêu trên là đảm bảo quyền khởi kiện theo Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết:
Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn có địa chỉ trụ sở tại Số Z phố C, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Do vậy, Toà án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội đã thụ lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án và loại việc được qui định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm g Khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.3] Về quan hệ pháp luật; tư cách người tham gia tố tụng:
Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Toà án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.4] Về kháng cáo:
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 12/7/2022, bị đơn và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn vắng mặt. Ngày 13/8/2022, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành tống đạt bản án sơ thẩm cho đại diện theo ủy quyền của bị đơn theo quy định của pháp luật. Ngày 25/7/2022, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn có đơn kháng cáo và nộp cho Toà án cấp sơ thẩm; người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm. Do đó kháng cáo đảm bảo về chủ thể, hình thức, nội dung và trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 271, Điều 272, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về phạm vi kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm số 101/2022/DS-ST ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hoặc bác yêu cầu của nguyên đơn.
[1.5] Về chứng cứ:
Tại Biên bản phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 24/5/2022, Toà án sơ thẩm đã công bố các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do các đương sự nộp và do Toà án thu thập. Các đương sự có mặt đã được tiếp cận toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ do hai bên đương sự cung cấp và Toà án thu thập. Ngoài tài liệu, chứng cứ xuất trình tại phiên họp các đương sự không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ nào khác, không có ý kiến phản đối về các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Sau phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 24/5/2022, bị đơn không có ý kiến phản đối gì đối với nội dung Biên bản phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 24/5/2022.
Do vậy, những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Toà án sử dụng làm căn cứ giải quyết đủ điều kiện là chứng cứ theo Điều 92, 93 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.6] Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên toà phúc thẩm:
Các đương sự đều đã được tống đạt hợp lệ đến tham gia phiên toà lần thứ hai. Tại phiên toà hôm nay, có mặt nguyên đơn, văng mặt bị đơn và đã có yêu cầu xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Công ty TXtheo khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[2.1] Xét Hợp đồng vay vốn số 130/2008/PTICC-HĐVV ngày 26.3.2008 và Phụ lục 01 - Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên năm 2012.
Hội đồng xét xử nhận thấy:
- Ngày 26.3.2008, bà Đào Thị TH và Công ty TXký Hợp đồng vay vốn số 130/2008/PTICC-HĐVV.
- Năm 2012, bà Đào Thị TH và Công ty TXký Phụ lục 01 - Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên xác định số tiền bà Đào Thị TH đã cho Công ty Bưu vay là 21.585.325đ, xác định lãi Công ty Bưu phải trả đến 31/12/2011, dự kiến trả hết nợ gốc và lãi vào 31/12/2014.
Xét thấy: Hợp đồng vay vốn số 130/2008/PTICC-HĐVV ngày 26/3/2008 và Phụ lục 01 - Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên năm 2012 được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện giao kết, các bên có đủ năng lực hành vi dân sự, dựa trên ý chí tự nguyện thỏa thuận của các bên, mục đích và nội dung của hợp đồng, nội dung thỏa thuận và mức lãi suất cho vay không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. Do vậy, Hợp đồng vay vốn số 130/2008/PTICC- HĐVV ngày 26/3/2008 và Phụ lục 01 - Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên năm 2012 được xác định là hợp pháp và có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia.
Công ty TXcho rằng Hợp đồng vay vốn là giả tạo nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận là có căn cứ.
[2.2]. Xét yêu cầu trả gốc của số tiền cho vay:
Quá trình vay vốn, Công ty TXđã thanh toán 18.573.000đ nợ gốc, còn 3.012.325đ nợ gốc chưa thanh toán và chưa trả lãi cho bà Đào Thị TH.
Do Công ty TXvi phạm nghĩa vụ trả nợ nên Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 2 Điều 155, Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự 2015, chấp nhận yêu cầu đòi nợ gốc của bà Đào Thị TH, buộc Công ty TXthanh toán 3.012.325đ nợ gốc cho bà Đào Thị TH là có căn cứ.
[2.3]. Xét yêu cầu tính lãi của số tiền cho vay:
Do Hợp đồng vay vốn số 130/2008/PTICC-HĐVV ngày 26/3/2008 và Phụ lục 01 - Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên năm 2012 được xác định là hợp pháp và có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia nên Công ty TXphải có trách nhiệm trả lãi theo Hợp đồng vay vốn và Phụ lục 01 đã ký kết.
Theo Phụ lục 01 - Hợp đồng vay vốn Cán bộ công nhân viên năm 2012 thể hiện các bên thống nhất:
- Lãi vay từ 27/3/2008 đến 31/12/2011 là 4.863.985đ.
- Lãi vay từ ngày 01/01/2012 đến ngày xét xử tính theo mức lãi suất 8,5%/năm đối với số tiền nợ gốc chưa trả là phù hợp với quy định tại Điều 2 của Hợp đồng vay vốn và phù hợp với quy định của pháp luật nên Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận và buộc Công ty thanh toán nợ lãi cho bà Đào Thị TH là 3.857.334 đ, cụ thể:
- Từ ngày 01/01/2012 đến ngày 09/10/2012 là:
9.772.325đ x 0,0002329%/ngày x 283 ngày = 644.036đ.
- Từ ngày 10/10/2012 đến ngày 23/10/2012 là:
6.722.325đ x 0,0002329%/ngày x 14 ngày = 22.080đ.
- Từ ngày 24/10/2012 đến ngày 30/12/2014 là:
6.040.325đ x 0,0002329%/ngày x 798 ngày = 1.122.508đ.
- Từ ngày 31/12/2014 đến ngày 05/5/2015 là:
5.308.325đ x 0,0002329%/ngày x 126 ngày = 155.759đ.
- Từ ngày 06/5/2015 đến ngày 01/10/2015 là:
4.576.325đ x 0,0002329%/ngày x 149 ngày = 158.792đ.
- Từ ngày 02/10/2015 đến ngày 29/12/2015 là:
3.844.325đ x 0,0002329%/ngày x 89 ngày = 79.678đ.
- Từ ngày 30/12/2015 đến ngày 12/7/2022 là:
3.012.325đ x 0,0002329%/ngày x 2387 ngày = 1.674.481đ.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc Công ty TXphải thanh toán cho bà Hải tổng số tiền lãi tạm tính đến ngày 12/7/2022 là 8.720.618đ là có căn cứ.
Trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án, Công ty TXđề nghị đưa ông Hoàng Ứng Huyền - nguyên giám đốc Công ty là người ký hợp đồng vay vốn với nguyên đơn tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm nhận thấy thời điểm ông Hoàng Ứng Huyền ký hợp đồng vay vốn với bà Đào Thị TH thì ông Hoàng Ứng Huyền ký với tư cách là người đại diện theo pháp luật của Công ty TX, không phải với tư cách cá nhân do đó Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Hoàng Ứng Huyền tham gia tố tụng là có căn cứ.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của đại diện Công ty TX:
Từ những phân tích tại mục [2], Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện theo ủy quyền của bị đơn đối với bản án dân sự sơ thẩm số 101/2022/DS-ST ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, Thành phố Hà Nội.
[4] Về án phí:
[4.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty TXphải chịu 586.647đ (năm trăm tám mươi sáu nghìn, sáu trăm bốn mươi bảy đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả bà Đào Thị TH 480.000đ (bốn trăm tám mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0069698 ngày 21.01.2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.
[4.2] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Do không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm nên Công ty Bưu Điện phải chịu 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm; được đối trừ số tiền 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí số AA 0070551 ngày 05/08/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
Nhận định của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên, Căn cứ:
QUYẾT ĐỊNH
- Các Điều 155, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Điểm c khoản 1 Điều 39; điểm g Khoản 1 Điều 40; Điều 68; Điều 92; Điều 93; Điều 147; Điều 148; Điều 271; Điều 272; Điều 273; khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 235 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện Công ty Cổ phần TX(PO), giữ nguyên bản án sơ thẩm số 101/2022/DS-ST ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội, cụ thể:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đào Thị TH đối với Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng TX (PO).
2. Buộc Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng TX (PO) phải thanh toán cho bà Đào Thị TH số tiền nợ gốc là 3.012.325đ, nợ lãi từ ngày 27/3/2008 đến ngày xét xử là 8.720.618đ. Tổng cộng là 11.732.943đ (mười một triệu, bảy trăm ba mươi hai nghìn, chín trăm bốn mươi ba đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu, nếu người bị thi hành án chưa thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì người bị thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án xong.
Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí:
Công ty Cổ phần Tư vấn Đầu tư và Xây dựng TX phải chịu 586.647đ án phí sơ thẩm; 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm; tổng cộng là 886.647đ; được đối trừ số tiền 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí số AA 0070551 ngày 05/08/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội; còn phải nộp 586.647đ (năm trăm tám mươi sáu nghìn, sáu trăm bốn mươi bảy đồng).
Bà Đào Thị TH không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm’ hoàn trả bà Hải số tiền 480.000đ (bốn trăm tám mươi nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0069698 ngày 21/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày Tòa tuyên án.
Bản án 437/2022/DS-PT về tranh chấp hợp đồng vay vốn
Số hiệu: | 437/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về