Bản án 43/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 51/2021/HSST ngày 06 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2021/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cầm Văn Q - Sinh năm 1996; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản C, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Cầm Văn T và bà Cầm Thị H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 30/8/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Tòng Văn L (Tòng Văn L1) - Sinh năm 1994; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản A, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Tòng Văn K và bà Tòng Thị P; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 31/8/2015 bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 01/11/2017 bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 04/11/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 40 phút ngày 30/8/2020 tổ công tác Công an xã C làm nhiệm vụ tại khu vực bản T, C, S phát hiện bắt quả tang Cầm Văn Q có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi quần phía trước bên trái đang mặc của Q 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa 03 gói nilon màu hồng, trong đó 01 gói chứa 04 viên nén màu hồng, 02 gói còn lại mỗi gói chứa 02 viên nén màu hồng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng là 08 viên nén màu hồng cùng 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO.

Ngay sau khi bị bắt Cầm Văn Q đã khai báo số ma túy bị thu giữ có Tòng Văn L (Tòng Văn L1) góp tiền cùng mua chung mà có.

Ngày 18/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Tòng Văn L, nhưng L đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 30/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã đã ra Quyết định truy nã bị can đối với Tòng Văn L. Ngày 04/11/2020 L bị bắt giữ theo lệnh truy nã.

Ngày 31/8/2020 tại Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng, trích mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng. Kết quả:

- 04 viên nén màu hồng hình tròn trong gói nilon màu hồng thứ nhất có tổng khối lượng 0,39 gam. Trích 02 viên có khối lượng 0,19 gam để làm mẫu giám định, ký hiệu Q1.

- 02 viên nén màu hồng hình tròn trong gói nilon màu hồng thứ hai có tổng khối lượng 0,20 gam. Trích 01 viên có khối lượng 0,10 gam để làm mẫu giám định, ký hiệu Q2.

- 02 viên nén màu hồng hình tròn trong gói nilon màu hồng thứ ba có tổng khối lượng 0,20 gam. Trích 01 viên có khối lượng 0,10 gam để làm mẫu giám định, ký hiệu Q3.

Kết luận giám định số 1408 ngày 03/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu Q1, Q2, Q3 đều là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là Q1 = 0,19 gam, Q2 = 0,10 gam, Q3 = 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là: 0,79 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận:

Khong 10 giờ ngày 30/8/2020 Q dùng điện thoại gọi qua ứng dụng Facebook Messenger rủ L góp tiền mua ma túy về cả hai cùng sử dụng, L đồng ý và hẹn gặp nhau ở khu vực ruộng thuộc bản A, C, huyện S để lấy tiền. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Q cầm theo số tiền 100.000đ đi bộ đến địa điểm đã hẹn để gặp L, tại đây L đưa cho Q 100.000đ rồi quay về nhà, còn Q một mình đi bộ lên bản T, xã C, S. Khi đi đến bản T, Q gặp một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết đang đi bộ ở dọc đường, Q hỏi mua được của người 01 gói nilon màu trắng bên trong có 03 gói nilon màu hồng trong đó 01 gói chứa 04 viên hồng phiến, 02 gói còn lại mỗi gói chứa 02 viên hồng phiến với giá 200.000đ. Mua được ma túy Q cất giấu trong túi quần phía trước ở bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà, khi Q ngồi nghỉ ở bên lề đường quốc lộ 4G thuộc bản T, xã C, Sông Mã thì tổ công tác Công an xã C đang làm nhiệm vụ đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng, tài sản như đã nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 13/CT-VKS ngày 04 tháng 01 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Cầm Văn Q, Tòng Văn L (Tòng Văn L1) về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 BLHS xử phạt Cầm Văn Q từ 18 đến 24 tháng tù.

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 BLHS xử phạt Tòng Văn L (Tòng Văn L1) từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng 03 mảnh nilon, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động của bị cáo Q; Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo L (L1), buộc bị cáo Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định, tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo nhất trí với nội dung của bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì, khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 14 giờ 00 phút, ngày 30/8/2020, đối với Cầm Văn Q;

- Vật chứng bị thu giữ là 08 viên nén màu hồng; Kết luận giám định số 1408 ngày 03/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu Q1, Q2, Q3 đều là ma túy, loại Methamphetamine; ....Tổng khối lượng ma túy thu giữ là: 0,79 gam, loại Methamphetamine”;

- Lời khai của các bị cáo về việc ngày 30/8/2020 đã bàn bạc và góp tiền mỗi người là 100.000đ để mua ma túy về sử dụng chung, sau đó bị cáo Q trực tiếp cầm tiền đi mua được 08 viên hồng phiến, sau khi mua được đang trên đường quay trở về nhà thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án và khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Ngày 31/8/2015 bị cáo Tòng Văn L (Tòng Văn L1) bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên ngày 01/11/2017 bị Tòa án nhân dân huyện S xử phạt 24 tháng tù. Như vậy, bị cáo đã có 01 tiền án với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm chưa được xoá án tích lại tiếp tục phạm tội mới nên thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Cầm Văn Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, truy tố bị cáo Tòng Văn L (Tòng Văn L1) về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 30/8/2020 các bị cáo có hành vi góp tiền cùng nhau mua 0,79 gam Methamphetamin mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi của bị cáo Cầm Văn Q thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý thuộc trường hợp được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hành vi của bị cáo Tòng Văn L (Tòng Văn L1) thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý thuộc trường hợp được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Cầm Văn Q ngay sau khi bị phát hiện bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã khai ra đồng phạm khác là bị cáo L (L1), giúp CQCSĐT phát hiện tội phạm nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm t khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Trong vụ án này bị Cầm Văn Q là người khởi sướng và trực tiếp thực hiện việc giao dịch, trao đổi mua bán ma túy, nên là người giữ vai trò chính trong vụ án. Bị cáo L (L1) có hành vi góp tiền cùng để mua ma túy là đồng phạm với bị cáo Q.

Bản thân bị cáo L sau khi chấp hành xong hình phạt của hai bản án trước trở về địa phương không lấy đó làm bài học để tu chí, rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới. Sau khi biết hành vi phạm tội bị phát hiện bị cáo L (L1) đã bỏ trốn khỏi địa phương gây khó khăn cho công tác điều tra, giải quyết vụ án, đến ngày 04/11/2020 thì bị bắt giữ theo lệnh truy nã. Cho thấy tính khó giáo dục, cải tạo và ý thức coi thường pháp luật cao của bị cáo.

Do vậy, cần có một mức án tương xứng với vai trò, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và khung hình phạt áp dụng đối với mỗi bị cáo phải chịu trách nhiệm trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để đưa ra một mức án phù hợp nhất áp dụng đối với từng bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều sống chung cùng bố mẹ, bản thân không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo Q khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không có căn cứ mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ và L hành, cùng các mảnh nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 chiếc điện thoại di động là tài sản cá nhân của bị cáo Q dùng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo Cầm Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định; Gia đình bị cáo L (L1) thuộc hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Cầm Văn Q phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Cầm Văn Q 22 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/8/2020.

- Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Tòng Văn L (Tòng Văn L1) phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Tòng Văn L (Tòng Văn L1) 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Căn cứ khoản 1 Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án (21/01/2021).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,40 gam Methamphetamine cùng 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 03 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh giấy nilon màu trắng, tất cả được đựng trong 01 phong bì thư đã niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 027745.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng vàng.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 12 ngày 04/01/2021 của VKSND huyện Sông Mã và theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/01/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Tòng Văn L (Tòng Văn L1).

Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Cầm Văn Q phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 21/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;