Bản án 43/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 44/2021/TLST-HS ngày 05/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số /HSST-QĐ ngày 44 ngày 18/02/2021 đối với các bị cáo:

1. Quàng Quang H (tên gọi khác: không); Sinh ngày 08 tháng 9 năm 1996 tại thành phố Sơn La; Nơi cư trú: Tổ 2, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nơi ở hiện nay: Bản Chậu Cọ, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông: Quàng Văn T; Con bà Lù Thị Th; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Có 01 tiền án ngày 09/11/2017, bị TAND thành phố Sơn La xử phạt 22 (hai mươi hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nay chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không; Về nhân thân: Năm 2009, bị UBND thành phố Sơn La quyết định đưa vào cơ sở giáo dưỡng với thời gian 24 tháng theo QĐ số 1342/QĐUB ngày 08/4/2009; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/11/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

2. Lò Văn Q (tên gọi khác: không); Sinh ngày 06 tháng 12 năm 1986 tại thành phố Sơn La; Nơi cư trú: Bản Phứa Cón, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Tạm trú tại: Bản Chậu Cọ, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: không; Con ông: Lò Văn N; Con bà Tòng Thị D; Bị cáo có vợ Tòng Thị V, có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2017; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/11/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 26 tháng 11 năm 2020, Quàng Quang H gọi điện thoại cho Lò Văn Q trú tại bản Phứa Cón, phường C, rủ Quang góp tiền đi mua ma túy về sử dụng, Q đồng ý rồi điều khiển xe máy biển kiểm soát 26AA 069.82 nhãn hiệu DETECH loại xe Cup 70 màu xanh dương (xe của mẹ đẻ Quang) đến nhà H đón H rồi cùng lên xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Q và H góp được 280.000,đ (hai trăm tám mươi ngàn đồng), trong đó phần của Q góp là 150.000,đ (một trăm năm mươi ngàn đồng), phần của H góp là 130.000,đ (một trăm ba mươi ngàn đồng). H cầm tiền đi một mình vào bản Thôm, xã Thôm Mòn gặp và mua được của một người nam giới không biết tên, tuổi và địa chỉ 01 gói ma túy bên trong có 02 viên ma tuý tổng hợp (hồng phiến) và 03 gói nilon màu trắng bên trong chứa bột cục màu trắng với giá 280.000,đ (hai trăm tám mươi ngàn đồng). H cầm gói ma túy đi về chỗ Q đứng chờ rồi cùng nhau đi xe về thành phố Sơn La, đi được khoảng 100m cả hai dừng xe đi vào bụi cây ven đường, mỗi người sử dụng hết 01 gói nilon trong đựng ma túy và mỗi người 01 viên ma tuý tổng hợp, còn lại 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa bột cục màu trắng, Q cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi cùng lên xe đi về thành phố Sơn La, khi đến khu vực bản Chậu Cọ, phường C thì bị tổ công tác Công an thành phố Sơn La phát hiện, lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Cơ quan Công an thành phố Sơn La thu giữ được vật chứng gồm: 01 gói giấy nilon màu trắng, bên trong có chứa bột cục màu trắng (Q + H cùng khai là Heroine). Ngoài ra Cơ quan Công an còn thu giữ của Lò Văn Q 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 26AA 069.82 nhãn hiệu DETECH loại xe Cup 70 màu xanh dương và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã cũ, thu giữ của Quàng Quang H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel đã cũ.

Ngày 26/11/2020, Công an thành phố Sơn La tiến hành cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định, kết quả số ma túy thu giữ của H và Q có khối lượng 0,21 gam, lấy 0,06 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu QH1, còn lại 0,15 gam lưu kho vật chứng ký hiệu QH2.

Tại Kết luận giám định số 17/KLMT ngày 27/11/2020 của phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu QH1 là ma túy, loại chất Heroine”.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ của Quàng Quang H và Lò Văn Q là 0,21 gam, loại chất Heroine. Không hoàn lại mẫu vật gửi giám định.

Tại bản Cáo trạng số 234/CT-VKSTP ngày 04 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố các bị cáo Quàng Quang H và Lò Văn Q cùng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Quàng Quang H và Lò Văn Q cùng khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Quàng Quang H và Lò Văn Q cùng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Quàng Quang H từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lò Văn Q từ 14 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự do các bị cáo đều là người mắc nghiện ma túy, thu nhập thấp, gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị, bị cáo không có tài sản riêng.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Heroine đang lưu kho vật chứng ký hiệu QH2. Chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sơn La đã trả cho bà Tòng Thị D 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 26AA 069.82 nhãn hiệu DETECH loại xe Cup 70 màu xanh dương, do bà D không biết, Q tự ý lấy xe và không liên quan trong vụ án. Đối với 02 chiếc điện thoại di động là phương tiện hai bị cáo liên lạc rủ nhau góp tiền đi mua ma túy, đề nghị tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Ý kiến của các bị cáo nhất trí như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát đối với các bị cáo tại phiên toà. Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào Nghị án, cả hai bị cáo đều xin được hưởng mức án thấp nhất trong khung hình phạt để sớm được trở về với gia đình, cộng đồng và làm ăn lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo: Vào ngày 26/11/2020, Quàng Quang H và Lò Văn Q đã có hành vi góp tiền đi mua ma túy về cùng sử dụng, khối lượng tàng trữ trái phép 0,21 gam Heroine (mục đích sử dụng cho bản thân vì cả hai bị cáo đều bị mắc nghiện ma túy), thì bị tổ công tác Công an thành phố Sơn La kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Quàng Quang H và Lò Văn Q đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, như Quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên tòa của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

1. “Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:

a)………… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

………..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo với số lượng tàng trữ 0,21 gam Heroine là không lớn, mục đích là để sử dụng cho bản thân, do các bị cáo là người đang bị mắc nghiện ma túy. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do cố ý, là đồng phạm giản đơn, rủ nhau góp tiền đi mua ma túy về cùng sử dụng. Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của các bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm phát sinh, lây lan các tệ nạn xã hội. Hành vi đó là nguy hiểm, gây mất trật tự an ninh và an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo đã được giáo dục, biết rõ tác hại của ma tuý đối với đời sống con người và xã hội, song vẫn cố tình phạm tội, nên cần áp dụng Điều 249, khoản 1 Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự 2015 để xem xét, quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo.

[3] Xét nhân thân bị cáo Quàng Quang H, về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo H: Bị cáo có 01 tiền án năm 2017 bị TAND thành phố Sơn La xử phạt 22 (hai mươi hai) tháng tù, nay chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo không có tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo H được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng trách trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét nhân thân bị cáo Lò Văn Q, về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Q:

- Bị cáo không có tiền án, không có tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo Q được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung, nhất là công tác phòng, chống tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Các bị cáo đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[4] Ngoài hình phạt chính là phạt tù, các bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Song, Hội đồng xét xử xét thấy cả hai bị cáo đều không có tài sản, không có thu nhập, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Đối với nguồn gốc 0,21 gam Heroine, bị cáo Huy khai nhận do bị cáo mua của một người nam giới không biết tên, tuổi và địa chỉ nên không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

[5] Về vật chứng vụ án: Xét cần tuyên tịch thu tiêu hủy 0,15 gam Heroine đang lưu kho vật chứng ký hiệu QH2 là phù hợp với điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sơn La đã trả cho bà Tòng Thị D 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 26AA 069.82 nhãn hiệu DETECH loại xe Cup 70 màu xanh dương, do không liên quan trong vụ án. Đối với 02 chiếc điện thoại di động là phương tiện hai bị cáo liên lạc rủ nhau góp tiền đi mua ma túy, cần sung Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố bị cáo Quàng Quang H phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo Quàng Quang H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/11/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Quàng Quang H.

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 17, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn Q phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo Lò Văn Q 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/11/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lò Văn Q.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Quàng Quang H, Lò Văn Q, tàng trữ trái phép chất ma tuý, bắt ngày 26/11/2020, gồm 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh giấy nilon màu trắng, mẫu lưu QH2=0,15 gam”;

- Tuyên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen số Imei 351867070291437, qua sử dụng và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen số Imei 1: 352377061271892, số Imei 2: 352377061271900, phần nắp vỏ phía sau bị vỡ (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/02/2021 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Quàng Quang H, Lò Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000,đ (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Quàng Quang H, bị cáo Lò Văn Q có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;