TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 43/2021/DS-PT NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các 15 tháng 5, ngày 12 tháng 6, ngày 08 tháng 9, ngày 15 tháng 9, ngày 27 tháng 10, ngày 22 tháng 12 năm 2020 và ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 217/2020/TLPT-DS ngày 02/3/2020, về việc “Tranh chấp về ranh giới quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 90/2019/DS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 163/2020/QĐ-PT ngày 16 tháng 4 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 159/2020/QĐ-PT ngày 15 tháng 5 năm 2020, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 169/2020/QĐPT- DS ngày 12 tháng 6 năm 2020, Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm số 07/2020/QĐ-PT ngày 13 tháng 7 năm 2020, Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự số 08/2020/QĐPT-DS ngày 24 tháng 8 năm 2020, Thông báo thời gian mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm số 310/TB-TA ngày 24 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 299/2020/QĐ-PT ngày 08 tháng 9 năm 2020, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 310/2020/QĐPT- DS ngày 15 tháng 9 năm 2020, Thông báo thời gian mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm số 365/TB-TA ngày 28 tháng 9 năm 2020, Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa xét xử phúc thẩm số 376/TB-TA ngày 08 tháng 10 năm 2020, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 357/2020/QĐPT- DS ngày 27 tháng 10 năm 2020, Thông báo thời gian tiếp tục phiên tòa xét xử phúc thẩm số 423/TB-TA ngày 25 tháng 11 năm 2020, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 396/2020/QĐPT- DS ngày 22 tháng 12 năm 2020, Thông báo thời gian tiếp tục phiên tòa xét xử phúc thẩm số 08/TB-TA ngày 14 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Phạm Kim T, sinh năm 1946;
Địa chỉ: Tổ 23, khóm Thuận P, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Phạm Kim T, ông Thái Quang Tr là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo quyết định của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
* Bị đơn:
1/ Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1963;
Địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
2/ Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1964;
Địa chỉ: Tổ 5, ấp Đông H, xã Tân Thuận Đ1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
3/ Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Tổ 12, ấp Tân H1, xã Tân Thuận Y, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
4/ Nguyễn Ngọc N1, sinh năm 1966;
Địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
5/ Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1969;
Địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
6/ Nguyễn Ngọc R, sinh năm 1973;
Địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
7/ Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1979;
Địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
8/ Nguyễn Thị Bích P1, sinh năm 1979;
Địa chỉ: Tổ 3, ấp 4, xã Mỹ I, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
9/ Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1981;
Địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
10/ Nguyễn Thanh G, sinh năm 1983;
Địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Trịnh Công S1, sinh năm 1960;
2/ Trịnh Lê Phương F, sinh năm 2004.
Người đại diện theo pháp luật của Trịnh Lê Phương F là: Ông Trịnh Công S1, sinh năm 1960; Là cha ruột của Trịnh Lê Phương F.
Cùng địa chỉ: Tổ 7, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
3/ Nguyễn Văn N2, sinh năm 1943;
4/ Nguyễn Thị Minh Tr1, sinh năm 1969;
5/ Nguyễn Bảo Q, sinh năm 1970;
6/ Nguyễn Minh L, sinh năm 1974;
7/ Quãng Kiều U, sinh 1990;
8/ Quãng Khả Th, sinh ngày 27/5/2001;
Cùng địa chỉ: Tổ 23, khóm Thuận P, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Văn N2, Nguyễn Thị Minh Tr1, Nguyễn Bảo Q, Nguyễn Minh L, Quãng Kiều U là: Phạm Kim T, sinh năm 1946; Địa chỉ: Tổ 22, khóm Thuận P, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp (theo văn bản ủy quyền ngày 07/11/2018).
Người đại diện theo ủy quyền của Quãng Khả Th là: Phạm Kim T, sinh năm 1946; Địa chỉ: Tổ 22, khóm Thuận P, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp (theo văn bản ủy quyền ngày 23/10/2019).
Bà Phạm Kim T, chị Nguyễn Ngọc B, ông Thái Quang Tr có mặt tại phiên tòa. Ông Trịnh Công S1 vắng mặt tại phiên tòa có lý do. Anh (chị): Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và tại phiên tòa bà Phạm Kim T trình bày:
Năm 1989, bà Phạm Kim T nhận chuyển nhượng đất của ông Hồ Văn H2 với kích thước ngang 38m x dài 55m tính từ mé sông đến giáp đất ông Nguyễn Ngọc R. Diện tích đất này, có nguồn gốc từ ông Nguyễn Ngọc R chuyển nhượng cho ông Lê Văn G và bà Đinh Thị Nh, sau đó ông G và bà Nh chuyển nhượng cho ông Hồ Văn H2.
Đến năm 1994, bà Phạm Kim T có cho ông Nguyễn Ngọc R mượn 03 chỉ vàng 24k để cưới vợ cho con trai, hẹn 03 ngày sau trả, đến hẹn ông R không có tiền trả nên ông R kêu bà T lấy phần đất giáp ranh với bà T dài 52,5m x ngang 2,3m, diện tích 120,75 m2, đất trồng cây lâu năm để trừ nợ, phần đất này giáp con mương của ông R. Ngày 19/7/2000, hộ bà Phạm Kim T được Ủy ban nhân dân thị xã C (nay là thành phố C) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 317, 1776 và 2370, cùng tờ bản đồ số 03 với tổng diện tích 1.874m2. Năm 2002, bà Phạm Kim T chuyển nhượng cho bà Phan Thị G1 74m2 làm lối đi. Sau đó, bà T làm đơn xin cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến ngày 22/8/2003, hộ bà Phạm Kim T cấp đổi 03 thửa đất nêu trên thành thửa 291, tờ bản đồ số 17, diện tích 1.455,6m2.
Năm 2003, Ủy ban nhân dân xã Hòa A (nay là Phường Hòa T1) thành phố C có thu hồi một phần đất của bà T từ mí dal vô 02m để mở rộng đường dal, không có bồi thường.
Ngày 30/01/2004, bà Phạm Kim T chuyển nhượng cho Võ Công D1 168,2m2, Thái Văn N3 168,8m2, Nguyễn Trần Kim Nguyệt Q1 147,9m2, Thái Công S2 163,3m2 và đã được tách thửa cho ông D1, ông N3, bà Q1 và ông S2 từ thửa 291, tờ bản đồ số 17. Ngày 31/12/2004, bà Phạm Kim T chuyển nhượng cho Trần Văn Ngh 127,6m2 và đã được tách thửa cho ông Ngh từ thửa 291, tờ bản đồ số 17. Năm 2009, bà Phạm Kim T chuyển nhượng cho Trịnh Công S1 diện tích đất ngang 05m x 30m, thành 150m2 từ thửa 291, tờ bản đồ số 17 nhưng ông S1 chưa được đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà T và ông S1 sẽ thỏa T1 sau về việc chuyển nhượng đất, bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T và ông S1 trong vụ án này. Việc ông S1 cất nhà và xây sàn nước là do bà T xác định ranh mốc giới nên ông S1 xây dựng.
Năm 2008, ông Nguyễn Ngọc R chết, các con của ông R tiến hành chia thừa kế và cho rằng đất của ông R còn trên mí mương với diện tích là 120,75m2 nên chị Nguyễn Ngọc B nhổ trụ đá, chặt, hái cây do bà T trồng trên đất tranh chấp.
Hiện nay, thửa đất số 291 tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ bà T giáp ranh với thửa đất số 2858 cấp cho hộ ông Nguyễn Ngọc R. Đến nay, cha, mẹ, vợ của ông R và ông R đều đã chết nên các con của ông R gồm: Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G là các đồng bị đơn.
Bà Phạm Kim T thống nhất các biên bản: Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2018 và Biên bản định giá tài sản ngày 11/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C; Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C.
Nay bà Phạm Kim T yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa đất số 291, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ bà Phạm Kim T với thửa đất số 2858, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ ông Nguyễn Ngọc R là đường thẳng nối từ các mốc: Mốc G, Mốc F và Mốc E, theo Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C.
* Các đồng bị đơn gồm: Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G: Không có văn bản ý kiến gửi (nộp) cho Tòa án.
Tòa án nhân dân thành phố C tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đồng bị đơn nhưng các đồng bị đơn không có mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như không có mặt tại các phiên tòa xét xử của Tòa án.
* Tại văn bản ghi ý kiến ngày 21/9/2018 và biên bản lấy lời khai ngày 25/10/2019 của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trịnh Công S1 và Trịnh Lê Phương F (có ông Trịnh Công S1 đại diện theo pháp luật) trình bày:
Vào năm 2009, ông S1 nhận chuyển nhượng diện tích đất của bà T ngang 05m x 30m, thuộc một phần của thửa 291, tờ bản đồ số 17. Ông S1 đã nhận đất và cất nhà kiên cố.
Hai bên thỏa thuận khi nào ông S1 cất nhà xong sẽ giao đủ tiền cho bà T và bà T sẽ sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S1. Cất nhà xong, phía bà T và ông S1 làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chị B không đồng ý ký tên giáp ranh và xảy ra tranh chấp ranh giữa hai bên cho đến nay. Do đó, phần đất ông S1 và cháu Phương F đang ở, bà T vẫn đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đến nay, ông S1 và cháu Phương F không khởi kiện bà T về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong vụ án này. Ông S1 và cháu Phương F sẽ thỏa thuận riêng với bà T sau khi giải quyết xong ranh đất giữa bà T và bị đơn.
Ông Trịnh Công S1 và cháu Trịnh Lê Phương F (có ông S1 đại diện theo pháp luật) đồng ý cùng có trách nhiệm liên đới tự nguyện tháo dỡ di dời công trình phụ là một phần sàn nước của ông S1 trong phạm vi các mốc E, 3, 4, F, E có diện tích 3,1m2 theo bản đồ đo đạc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C, để trả đất lại cho hộ ông R và phù hợp với việc xác định ranh của bà Phạm Kim T.
Ông Trịnh Công S1 và cháu Trịnh Lê Phương F không yêu cầu hộ bà Phạm Kim T hay các thành viên thuộc hàng thừa kế của ông Nguyễn Ngọc R hỗ trợ chi phí di dời phần sàn nước của ông S1.
Ông Trịnh Công S1 tiếp tục đề nghị được vắng mặt trong các buổi xét xử. Ý kiến về nội dung vụ án có liên quan đến ông S1 và cháu Phương F thì ông S1 và cháu Phương F đã trình bày cho Tòa án đầy đủ và không thay đổi. Khi nào có bản án, ông S1 chấp hành theo bản án.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 90/2019/DS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố C, quyết định:
Chấp nhận yêu cầu xác lập đường ranh đất của bà Phạm Kim T đối với hộ ông Nguyễn Ngọc Thành.
Đường ranh phân định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa đất số 291, tờ bản đồ số 17 của hộ bà Phạm Kim T với thửa đất số 2858, tờ bản đồ số 17 của hộ ông Nguyễn Ngọc R, cùng tọa lạc tại Tổ 6, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C là đường thẳng nối từ các mốc: Mốc G, Mốc F và Mốc E.
Đường ranh giới quyền sử dụng đất nêu trên được xác định từ không gian đến lòng đất theo chiều thẳng đứng. Cây trồng, vật kiến trúc (nếu có) của bên nào vướng vào đường ranh thì bên đó tự thu dọn, đảm bảo sử dụng đúng đường ranh giới đã tuyên theo quy định pháp luật.
Ông Trịnh Công S1 và cháu Trịnh Lê Phương F (có ông S1 đại diện theo pháp luật) có trách nhiệm liên đới tháo dỡ, di dời một phần sàn nước của ông S1 để trả đất lại cho bị đơn, trong phạm vi các mốc E, 3, 4, F, E có diện tích 3,1m2.
Theo Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C (kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C).
Các đương sự đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh và đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được nhận và chịu trách nhiệm nộp các khoản thu theo quy định pháp luật (nếu có).
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Phạm Kim T với Trịnh Công S1 thì Hội đồng xét xử không xem xét.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí, án phí, quyền kháng cáo và Thi hành án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/12/2019, chị B và các đồng bị đơn kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm và chấp nhận yêu cầu của bị đơn buộc hộ bà T trả lại cho các đồng bị đơn quyền sử dụng đất là 142,57m2, tại thửa 2858, thửa 2602, tờ bản đồ số 17, đất tọa lạc tại khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Luật sư Thái Quang Tr trình bày và đề nghị: Việc trình bày và yêu cầu của bà T là có cơ sở, phía bị đơn trình bày và yêu cầu kháng cáo nhưng không cung cấp đầy đủ chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn yêu cầu trả đất và hủy bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bà Phạm Kim T trình bày: Bà T yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa đất số 291, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ bà Phạm Kim T với thửa đất số 2858, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ ông Nguyễn Ngọc R là đường thẳng nối từ các mốc: Mốc G, Mốc F và Mốc E, theo Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C.
Chị Nguyễn Ngọc B trình bày: Chị B là đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G theo hợp đồng ủy quyền ngày 19/10/2009. Chị B yêu cầu hộ bà T trả lại quyền sử dụng đất là 142,57m2 thuộc thửa 2858 và thửa 2602, tờ bản đồ số 17, tại khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; Yêu cầu hủy bản án sơ thẩm số 90/DS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố C.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm cho đến trước khi nghị án, Hội đồng xét xử đã tiến hành phiên tòa đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự trong vụ án đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296, khoản 1, 5 Điều 308, khoản 2 Điều 312 - Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị B và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của các đồng bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của chị B và các đồng bị đơn còn trong hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ các bị đơn gồm: Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G lần thứ hai nhưng các bị đơn này vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Trịnh Công S1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 296- Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu kháng cáo của chị B và các đồng bị đơn yêu cầu hộ bà T trả lại cho các đồng bị đơn quyền sử dụng đất là 142,57m2, tại thửa 2858, thửa 2602, tờ bản đồ số 17, đất tọa lạc tại khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp và yêu cầu hủy bản án sơ thẩm số 90/DS-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố C.
[2.1.1] Xét thấy: Chị B và các đồng bị đơn cho rằng đất của ông Nguyễn Ngọc R và bà Dương Thị H3 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là giấy chứng nhận QSDĐ) từ năm 2005, phía bà T lấn chiếm đất trái pháp luật, gia đình chị B chưa được tống đạt bất cứ văn bản nào từ khi thụ lý cho đến khi xét xử, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ của ông R là đúng theo quy định của pháp luật, đúng hiện trạng, chưa có văn bản thu hồi cấp sai. Chứng cứ theo bản án là không đúng thực tế, không đúng hồ sơ thụ lý ban đầu, chứng cứ của người liên quan là ngụy tạo.
Tuy nhiên, qua xem xét hồ sơ vụ án thì Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tống đạt cho bị đơn nhưng bị đơn không nhận, không cung cấp tài liệu chứng cứ, không gửi văn bản ý kiến cho Tòa án đối với yêu cầu khởi kiện của bà T, không xác định ranh mốc giới thửa đất tiếp giáp với phần đất tranh chấp để Tòa án có đủ cơ sở xem xét giải quyết. Chị B cho là hộ của ông Thành đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng theo quy định của pháp luật nhưng lại không cung cấp chứng cứ cho Tòa án, không có mặt tại phiên hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm để chứng minh quyền lợi của mình.
[2.1.2] Chị B cho là chứng cứ theo bản án sơ thẩm không đúng thực tế, không đúng hồ sơ thụ lý ban đầu, chứng cứ của người có quyền lợi nghĩa vụ liên qun là ngụy tạo nhưng tại phiên tòa phúc thẩm chị B không đưa ra được chứng cứ để chứng minh.
[2.1.3] Chị B yêu cầu giải quyết theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và sơ đồ hiện trạng tranh chấp ranh giữa chị Nguyễn Ngọc B và các đồng nguyên đơn với bà Phạm Kim T ngày 16/5/2011, chị B không đồng ý theo bản đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp giữa bà Phạm Kim T với chị Nguyễn Ngọc B ngày 30/5/2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố C. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu này là không có cơ sở để xem xét vì biên bản và sơ đồ ngày 16/5/2011 là tranh chấp toàn bộ ranh đất giữa các con của ông R với bà T và các hộ bà T đã chuyển nhượng đất nhưng hiện nay bà T chỉ tranh chấp ranh đối với một phần ranh đất (phần ranh đất do bà T, ông S1 đang sử dụng) so với ranh đất mà chị B và các đồng nguyên đơn đã tranh chấp trước đây (phần ranh đất do bà T và các hộ do bà T chuyển nhượng đất). Tại phiên tòa phúc thẩm, bà T cho rằng bên chị B xác định bà T lấn chiếm đất thì bà T đồng ý rút lại toàn bộ đơn khởi kiện để bên chị B hoặc bà T khởi kiện lại toàn bộ phần ranh đất như trước đây bên chị B đã khởi kiện bà T nhưng chị B không đồng ý việc bà T rút đơn khởi kiện và không đồng ý rút lại đơn kháng cáo. Cho nên xét việc chị B yêu cầu Tòa án phúc thẩm giải quyết căn cứ theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và sơ đồ hiện trạng tranh chấp ranh giữa chị Nguyễn Ngọc B và các đồng nguyên đơn với bà Phạm Kim T ngày 16/5/2011 là không có căn cứ chấp nhận.
[2.1.4] Đồng thời, khi Tòa án phúc thẩm thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định lại phần ranh đất có tranh chấp theo đơn yêu cầu của bà T, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các đương sự theo quy định của pháp luật, do khi Tòa án sơ thẩm giải quyết chị B và các đồng bị đơn không xác định ranh. Tuy nhiên, khi Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xem xét thẩm định lại phần ranh đất có tranh chấp thì chị B tiếp tục không xác định phần ranh đất có tranh chấp với bà T mà yêu cầu xác định toàn bộ phần ranh đất như trước đất chị B và các đồng nguyên đơn tranh chấp với bà T và không đồng ý ký tên vào biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp nên Tòa án cấp phúc thẩm không có cơ sở để xem xét quyền lợi hợp pháp cho chị B và các đồng bị đơn theo quy định của pháp luật.
[2.1.5] Ngoài ra, theo giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho hộ của ông R, theo bản đồ địa chính chính quy (tọa độ lưới) thì kích thước ghi nhận trên giấy chứng nhận QSDĐ nhiều hơn so với kích thước do bà T xác định tại bản đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp giữa bà Phạm Kim T với chị Nguyễn Ngọc B ngày 30/5/2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố C, cụ thể là chiều dài theo giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho hộ của ông R cạnh giáp đất của ông R (phía nhà của anh G) là 29m, theo bản đồ đo đạc là 28,28m, theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và sơ đồ hiện trạng tranh chấp ranh ngày 16/5/2011 là 28,7m. Vị trí ranh phía sau theo bà T xác định trước đây cách kim tỉnh trên đất bà T theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ và sơ đồ hiện trạng tranh chấp ranh ngày 16/5/2011 là 2,65m nhưng theo bản đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp giữa bà Phạm Kim T với chị Nguyễn Ngọc B ngày 30/5/2018 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố C là 1,92m. Cho thấy việc bà T xác định ranh tranh chấp so với trước đây thì kích thước ngắn hơn, diện tích ít hơn. Hội đồng xét xử xét việc chị B cho là bà T lấn chiếm đất của bên chị B là không có cơ sở.
[2.1.6] Việc bà T cấp đổi giấy chứng nhận QSDĐ năm 2003 diện tích là 1.455,6m2 so với diện tích đất được cấp trước đây là 1.874m2, diện tích đất bị giảm, trong khi bên ông R thì diện tích tăng lên 175,7m2 (theo xác định tại văn bản số 66/VPĐKQSDĐ ngày 18/4/2007), theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho hộ của ông Nguyễn Ngọc R vào năm 2007. Cho nên xét việc chị B và các đồng bị đơn cho là bà T lấn chiếm đất là không có căn cứ.
[2.1.7] Chị B và các đồng bị đơn không cung cấp chứng cứ, không hợp tác khi Tòa án giải quyết, đo đạc thẩm định và hòa giải, Tòa án triệu tập để xét xử thì các đồng bị đơn vắng mặt không có lý do. Chị B và các đồng bị đơn không có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu bà T trả lại diện tích đất là 142,57m2 cho nên việc chị B các đồng bị đơn yêu cầu trả lại diện tích đất là 142,57m2 là không có căn cứ để xem xét giải quyết.
[2.1.8] Chị B kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm nhưng tại phiên tòa phúc thẩm chị B không đưa ra được chứng cứ chứng minh nên Hội đồng xét xử xét yêu cầu của chị B là không có căn cứ chấp nhận.
[2.1.9] Chị B và các đồng khởi kiện đã khởi kiện tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất với bà T tại Tòa án nhân dân thành phố C và đã được Tòa án thụ lý giải quyết tại các bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm như sau: Bản án sơ thẩm số 124/DS-ST ngày 16/11/2010, bản án phúc thẩm số 167/DS-PT ngày 19/5/2011, bản án sơ thẩm số 146/DS-ST ngày 26/12/2011, bản án phúc thẩm số 78/DS-PT ngày 12/6/2014; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 04/2016/QĐST-DS ngày 23/6/2016. Các đương sự trong vụ án không có kháng cáo, khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên không có kháng nghị theo quy định của pháp luật.
[2.1.10] Năm 2017, bà T khởi kiện tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất đối với hộ ông R và các đồng thừa kế con của ông R, tranh chấp phần ranh tại vị trí các mốc Mốc G, Mốc F và Mốc E, theo Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C, tranh chấp một phần ranh giới quyền sử dụng đất của bà T ông S1 đang sử dụng, không tranh chấp đối với phần ranh đất của các hộ mà bà T đã chuyển nhượng giáp ranh với bên ông R, do các hộ này đã sử dụng ổn định được Nhà nước cấp quyền sử dụng đất và đã cất nhà kiên cố trên đất. Khi bà T tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất, Tòa án nhân dân thành phố C đã gửi thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng của Tòa án cho chị B và các đồng bị đơn nhưng chị B và các đồng bị đơn không gửi Văn bản ý kiến, không có văn bản ủy quyền gửi cho Tòa án, không tham gia phiên hòa giải, không có mặt khi Tòa án xét xử.
[2.1.11] Tại phiên tòa phúc thẩm chị B căn cứ theo Hợp đồng ủy quyền ngày 19/11/2009 của các đồng khởi kiện đã khởi kiện bà T trước đây để cho rằng hiện nay các đồng bị đơn vẫn còn ủy quyền cho chị B trong vụ án bà T khởi kiện chị B và các đồng bị đơn là không có cơ sở. Do vụ án chị B và các đồng nguyên đơn khởi kiện bà T đã được Tòa án nhân dân thành phố C giải quyết xong bằng Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 04/2016/QĐST- DS ngày 23/6/2016, các đương sự trong vụ án không có kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp không có kháng nghị, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Cho nên, Hội đồng xét xử xét việc chị B cho là các đồng bị đơn vẫn còn ủy quyền cho chị B theo Hợp đồng ủy quyền vào năm 2009 là không có căn cứ chấp nhận.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà T yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa đất số 291, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ bà Phạm Kim T với thửa đất số 2858, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ ông Nguyễn Ngọc R là đường thẳng nối từ các mốc: Mốc G, Mốc F và Mốc E, theo Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C.
[2.2.1] Bà Phạm Kim T cho rằng sau khi nhận chuyển nhượng đất của ông Nguyễn Ngọc R vào năm 1994, bà tiến hành trồng cây trên đất tại vị trí giáp ranh đất với ông R. Bà trồng các loại cây như còng, khế, xoài, sao, bằng lăng, gòn. Bà trồng cây cách ranh đất 01m. Khoảng cách từ các cây trồng đến mương của ông R là 01m (một mét). Tuy nhiên, theo thời gian sử dụng, mương của ông R sâu nên đất lở vào sát gốc cây. Tại buổi thẩm định bà T xác định ranh đất của bà là cách mí mương của ông R 0,5m về đất ông Thành là ranh, được xác định là đường thẳng nối từ các mốc: Mốc 5, mốc 4 và mốc 3. Tuy nhiên, tại phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải và tại phiên tòa bà T đồng ý và yêu cầu xác định ranh đất của bà với hộ ông R là ở mí hầm, tức là đường thẳng nối từ các mốc: Mốc G, Mốc F và Mốc E.
[2.2.2] Ngoài ra, khi Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xem xét thẩm định lại phần ranh đất tranh chấp, bị đơn không xác định ranh mốc giới phần diện tích đất tại thửa 2858, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ ông Nguyễn Ngọc R và không xác định ranh mốc giới phần diện tích đất tranh chấp với bà Phạm Kim T nên phải chịu hậu quả của việc không đưa ra chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ theo quy định tại Điều 91- Bộ luật tố tụng dân sự.
[2.2.3] Tại công văn số 675/ CNVPĐKĐĐ-TPCL ngày 19 tháng 10 năm 2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C xác định: “…phần diện tích đất của thửa 291, tờ bản đồ số 17 cấp cho hộ bà Phạm Kim T thì phía sau hậu giáp với thửa 2858, tờ bản đồ số 17 và đã được Ủy ban nhân dân thành phố C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Ngọc R vào ngày 05/6/2007…”.
[2.2.4] Căn cứ vào Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C thì phần đất tiếp giáp giữa đất bà Phạm Kim T và đất ông Nguyễn Ngọc R là mương. Bà T thừa nhận mương của ông R, từ mí mương giáp đất bà T đang sử dụng trở ra đường Lê Văn Cử là của bà T. Bà T trồng các cây lâu năm trên đất tại vị trí từ mí mương tức là từ các mốc G đến mốc F đến mốc E và sử dụng ổn định, liên tục từ năm 1994 đến nay. Từ năm 2002 đến năm 2004, bà T có chuyển nhượng một phần đất từ đường dal Lê Văn Cử đến mí mương cho các hộ xung quanh gồm: Võ Công D1, Thái Văn N3, Nguyễn Trần Kim Nguyệt Q1 và Thái Công S2. Các hộ này đã kê khai đăng ký, được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cất nhà ở trên đất, bà T trồng cây trên phần đất tranh chấp nhưng ông R và các con của ông Thành, không ai có ý kiến, không ai phản đối, không ai tranh chấp với bên bà T. Ngoài ra, trên phần đất giáp mí mương này khi ông R còn sống không trồng cây hay xây dựng công trình gì và hiện nay các bị đơn cũng không có trồng cây hay xây dựng công trình gì trên phần ranh đất có tranh chấp.
[2.3] Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Kim T và ông Trịnh Công S1 thì ông Trịnh Công S1 và bà Phạm Kim T đều không khởi kiện trong vụ án này, ông S1 và bà T xác định sẽ thỏa thuận riêng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.4] Xét thấy, bà T cho rằng việc ông S1 cất nhà và xây sàn nước là do bà T xác định ranh mốc giới nên ông S1 xây dựng. Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/10/2019 ông Trịnh Công S1 và con là Trịnh Lê Phương F (có ông S1 đại diện theo pháp luật) đồng ý cùng có trách nhiệm liên đới tự nguyện tháo dỡ di dời công trình phụ là một phần sàn nước của ông S1 trong phạm vi các mốc E, 3, 4, F, E có diện tích 3,1m2 để trả đất lại cho bên hộ ông R, phù hợp với việc xác định ranh của bà Phạm Kim T. Ông S1 và con là Trịnh Lê Phương F không yêu cầu hộ bà Phạm Kim T hay những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Ngọc R hỗ trợ chi phí di dời một phần sàn nước của ông S1 nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[3] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét việc yêu cầu của bà Phạm Kim T là có căn cứ chấp nhận. Xét yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Ngọc B là không có cơ sở để chấp nhận.
[4] Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G có đơn kháng cáo nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt thì coi như những người này đã từ bỏ việc kháng cáo. Cho nên Hội đồng xét xử xét đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.
[5] Đối với phần diện tích đất bà T đã chuyển nhượng cho Võ Công D1 168,2m2, Thái Văn N3 168,8m2, Nguyễn Trần Kim Nguyệt Q1 147,9m2, Thái Công S2 163,3m2, Trần Văn Ngh 127,6m2 và đã được tách thửa cho ông D1, ông N3, bà Q1, ông S2 và ông Ngh từ thửa 291, tờ bản đồ số 17. Hiện nay bà T, các hộ này và bên chị B không có tranh chấp, khi nào có phát sinh tramh chấp thì giải quyết bằng một vụ kiện khác.
[6] Đối với hộ của ông R tại thời điểm cấp đất cho hộ của ông R năm 2007, theo xác nhận của Cơ quan Công an tại văn bản số 1583 ngày 10/11/2020 của Công an thành phố C, trong hộ gồm có: Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G. Nhưng hiện nay ông R, bà H3 đã chết, đất hiện nay cấp cho hộ của ông Nguyễn Ngọc R đứng tên thuộc thửa 2858, hiện nay các con của ông R đang quản lý sử dụng đất và bà T đang tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất với thửa đất này. Cho nên Tòa án đã đưa những người trong hộ của ông R tại thời điểm cấp đất năm 2007 và những người thuộc hành thừa kế thứ nhất của ông R là các con của ông R, bà H3 tham gia tố tụng trong vụ án với T2 cách là bị đơn.
[7] Qua lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy bà T trình bày và yêu cầu là có căn cứ. Việc trình bày và yêu cầu kháng cáo của chị B là không có căn cứ để chấp nhận.
[8] Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không có cung cấp tài liệu chứng cứ gì thêm và không yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
[9] Từ các căn cứ, nhận định và phân tích nêu trên, xét thấy án sơ thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T là có căn cứ.
[10] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[11] Xét việc đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
[12] Xét việc đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp là có căn cứ chấp nhận.
[13] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tổng cộng là: 9.033.000 đồng do nguyên đơn Phạm Kim T nộp tạm ứng và đã chi xong. Do chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Kim T nên bà T không phải chịu chi phí. Chị B và các đồng bị đơn phải liên đới chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật.
[14] Về án phí:
Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (Bà T được miễn nộp tiền tạm ứng án phí do thuộc trường hợp người cao tuổi). Chị B và các đồng bị đơn phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Án phí dân sự phúc thẩm: Chị B phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Sung vào công quỹ nhà nước số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm do Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G đã nộp theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 308-Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Áp dụng: Điều 26, 38, 91, 147, 157, 163, 165, 296, 312-Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 175-Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 29 Điều 3, Điều 99, khoản 3 Điều 100, Điều 166, Điều 170, Điều 202 và Điều 203-Luật đất đai 2013; Điều 12, 26, 29-Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Ngọc B.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 90/2019/DS-ST ngày 26 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố C.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Phạm Kim T yêu cầu xác lập đường ranh đất đối với những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Ngọc R gồm Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G.
Ranh giới quyền sử dụng đất giữa thửa đất số 291 của hộ bà Phạm Kim T với thửa đất số 2858 của những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Ngọc R gồm Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G, đất tọa lạc tại tổ 6, khóm Thuận A, phường Hòa T1, thành phố C là đường thẳng nối từ các mốc: Mốc G, Mốc F và Mốc E.
Ranh đất được sử dụng theo chiều thẳng đứng từ lòng đất đến không giA, tài sản của hai bên lấn chiếm ranh đất phải di dời theo quy định pháp luật. (kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C).
Ông Trịnh Công S1 và cháu Trịnh Lê Phương F (có ông S1 đại diện theo pháp luật) có trách nhiệm liên đới tháo dỡ, di dời một phần sàn nước của ông S1 để trả đất lại cho bị đơn, trong phạm vi các mốc E, 3, 4, F, E có diện tích 3,1m2.
Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 30/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố C, Bản đồ đo đạc và sơ đồ mốc ngày 30/5/2018 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố C.
Các đương sự được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh và đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Kim T với ông Trịnh Công S1 Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
* Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tổng cộng là: 9.033.000 đồng do nguyên đơn Phạm Kim T nộp tạm ứng và đã chi xong. Buộc Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G liên đới nộp số tiền 9.033.000 đồng tại Cơ quan Thi hành án để trả lại cho bà Phạm Kim T.
* Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Kim T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (Bà T được miễn nộp tiền tạm ứng án phí do thuộc trường hợp người cao tuổi).
Anh (chị): Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G liên đới chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: Chị Nguyễn Ngọc B phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đồng. Nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007976 ngày 13/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Đồng Tháp. Chị B đã nộp đủ án phí phúc thẩm.
Sung công quỹ nhà nước số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm do Nguyễn Ngọc N, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Ngọc T2, Nguyễn Ngọc N1, Nguyễn Ngọc S, Nguyễn Ngọc R, Nguyễn Thị Bích P1, Nguyễn Ngọc D, Nguyễn Thanh G, mỗi người là 300.000 đồng, theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007977, số 0007978, số 0007979, số 0007980, số 0007981, số 0007982, số 0007983, số 0007984, số 0007985 cùng ngày 13/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được Thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải Thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 43/2021/DS-PT ngày 29/01/2021 về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 43/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về