TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 43/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 29 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2019/HSST-QĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Ngô Quang D, sinh năm 1995, tại Bình Dương; Nơi đăng ký HKTT: ấp HC, xã MH, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Ngô Quang Thi, sinh năm 1953 và bà Dương Thị Hoa, sinh năm 1958 (đã chết); vợ: Ngô Thị Tuyết Nhung, sinh năm 1997 (đã ly hôn); bị cáo có 01 con sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 26/9/2016 bị Công an huyện Dầu Tiếng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác bằng hình thức phạt tiền; Ngày 26/02/2019, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đình chỉ vụ án về hành vi “Cố ý gây thương tích” do bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 07/3/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Tiến H, sinh năm 1999, tại Bình Dương; Nơi đăng ký HKTT: ấp HT, xã MH, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đức, sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị Tư, sinh năm 1953. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Ngô Quang D: Luật sư Ngô Thị Bích N thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B. Có mặt.
- Bị hại: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1992; HKTT: ấp HT, xã MH, huyện D, tỉnh Bình Dương. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Tài Chính TNHH MS; địa chỉ: phường LT, quận Đ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp:
+ Bà Nguyễn Thị Phương Tr, sinh năm 1987; địa chỉ: Phường X, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 23/8/2019). Có mặt.
+ Bà Đỗ Thị Xuân M, sinh năm 1984; địa chỉ: Phường V, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 23/8/2019). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Quang D và Nguyễn Tiến H là bạn và thường đi chơi chung với nhau. Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 22/12/2018, D và H đang ngồi nói chuyện với nhau tại lô cây cao su của gia đình D tại ấp HT, xã MH, huyện D, tỉnh Bình Dương thì D nhờ H đi mua thuốc lá cho D. H đồng ý và điều khiển xe mô tô hiệu Winner màu đen, biển số 61C1-851.64 chạy đi mua thuốc lá. Khi vừa chạy xe ra khỏi lô cao su thì H gặp Nguyễn Thanh T đỗ xe mô tô hiệu Honda biển số 52LA-6046 và đang đứng ở giữa đường, H thắng xe nên xe của H bị tắt máy. Thấy H dừng xe thì T dùng từ ngữ thô tục chửi H (do T đã sử dụng rượu trước đó). Thấy T có biểu hiện say xỉn nên H điều khiển xe bỏ đi đến khu vực gần ngã ba Bưng Bàng để mua thuốc lá.
Sau khi mua thuốc lá, H điều khiển xe về lô cao su của gia đình D, khi đến khu vực vựa phân Hoài Thương thuộc ấp HT, xã MH, huyện D, tỉnh Bình Dương, H tiếp tục gặp T đứng ở giữa đường và T dùng từ ngữ thô tục chửi H. H không nói gì và điều khiển xe chạy về gặp D. Cùng thời điểm này, D ngồi trong lô cao su nhìn ra đường thì thấy có nhiều ánh đèn của xe mô tô nên D nghĩ rằng có người chặn đường và gây sự với H nên D cầm 01 cây rựa (có cán bằng gỗ dài khoảng 30cm, đường kính 03 cm, lưỡi làm bằng kim loại dài 35cm, rộng 5,5cm) đi bộ ra đường, đi được một đoạn thì D gặp H điều khiển xe chạy về. Đồng thời D nghe H kể về việc bị T chặn đường và dùng từ ngữ thô tục chửi H nên D kêu H điều khiển xe mô tô hiệu Winner màu đen, biển số 61C1-851.64 chở D ngồi sau cầm theo cây rựa trên tay để tìm T và giải quyết mâu thuẫn với T. Khi đến khu vực vựa phân Hoài Thương, H và D thấy T đang điều khiển xe mô tô hiệu Honda biển số 52LA-6046 chạy phía trước nên H điều khiển xe chạy vượt qua và chặn đầu xe T lại. Tại đây, D cự cãi với T về việc T chặn đường và chửi H. Trong lúc cự cãi nhau T dùng tay đánh D nhưng không trúng, D cầm rựa chém liên tiếp 02 cái vào người T, T đưa tay trái lên đỡ thì bị chém trúng tay trái gây thương tích. Sau khi gây thương tích cho T, H chở D chạy đến khu vực lô cao su 30 của Nông trường cao su MT thuộc ấp TB, xã MT, huyện D, tỉnh Bình Dương để ném bỏ cây rựa là hung khí gây án. Còn T được người thân đưa đi cấp cứu và điều T tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B đến ngày 29/12/2018 thì xuất viện.
Tại Giấy chứng nhận thương tích số 5326/CN ngày 25/01/2019 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương thể hiện tình trạng thương tích lúc vào viện của Nguyễn Thanh T như sau:
- Vết thương cẳng tay (T) #5cm + khuỷu tay (T) #5cm;
- Vết thương 1/3 trên cẳng tay lộ cơ đứt không duỗi được cổ tay + các ngón, tê mu ngón I, mạch quay (T) rõ;
- XQ khớp khuỷu: gãy đầu dưới xương cánh tay (T).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 44/2019/GĐPY ngày 28/01/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Nguyễn Thanh T là: 19% (mười chín phần trăm) theo bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành kèm theo Thông tư số: 20/2014/TT-BYT do Bộ y tế ban hành ngày 12/6/2014.
Tại Cáo trạng số 38/CT-VKSDT ngày 29/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng truy tố bị cáo Ngô Quang D và Nguyễn Tiến H về tội “Cô ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo D, bị cáo H về tội “Cô y gây thương tich”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, x khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ngô Quang D từ 30 – 36 tháng tù.
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, x khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến H từ 26 - 29 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 52 – 58 tháng.
Về biện pháp tư pháp:
- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu đen, biển số 61C1-851.64, số máy 1203935, số khung 356627. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do Nguyễn Tiến H đứng tên chủ sở hữu. Xét thấy, đây là phương tiện H sử dụng để thực hiện tội phạm nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
Ngày 15/8/2018, H mua xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu đen, biển số 61C1-851.64, số máy 1203935, số khung 356627 thông qua Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS thể hiện tại Hợp đồng cho vay mua hàng trả góp số 100031808003559 với thời hạn vay 18 tháng. Đến nay, H đã trả được khoản vay của 12 tháng: 35,940,000 đồng, còn khoản vay của 06 tháng còn lại là 17,970,000 đồng, H đã thống nhất thỏa thuận với Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS (bà Nguyễn Thị Phương Tr, sinh năm 1987 là người đại diện theo ủy quyền) về việc H tiếp tục trả các khoản vay còn lại theo quy định của hợp đồng. Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS yêu cầu được nhận xe để thanh lý thu hồi vốn là không phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận.
- Đối với 01 (một) cây Rựa dài 65cm, cán bằng gỗ dài 30cm, đường kính cán gỗ 03cm, lưỡi rựa rộng 5,5cm, hẹp dần về cán. Xét thấy, cây rựa là tài sản hợp pháp của D và là hung khí D sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
* Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Ngô Quang D và Nguyễn Tiến H đã tự nguyện bồi thường cho bị hại Nguyễn Thanh T chi phí điều T với số tiền 39.200.000 đồng. Tại phiên tòa bị hại Nguyễn Thanh T yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm chi phí điều T là 10.000.000 đồng, các bị cáo đồng ý bồi thường nên đề nghị ghi nhận.
- Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 38/CT-VKSDT ngày 29/8/2019 của Viện kiểm sát nhân nhân huyện Dầu Tiếng đã truy tố, bị cáo nhìn nhận trách nhiệm của mình và có thái độ ăn năn hối cải, xin được giảm nhẹ hình phạt - Ý kiến của người bị hại Nguyễn Thanh T tại phiên tòa: Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự bị hại yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm chi phí điều T là 10.000.000 đồng.
- Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa: Ngày 15/8/2018, H mua xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu đen, biển số 61C1-851.64, số máy 1203935, số khung 356627 thông qua Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS thể hiện tại Hợp đồng cho vay mua hàng trả góp số 100031808003559 với thời hạn vay 18 tháng. Đến nay, H đã trả được khoản vay của 12 tháng: 35,940,000 đồng, còn khoản vay của 06 tháng còn lại là 17,970,000 đồng. Nay Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS yêu cầu được nhận xe để thanh lý thu hồi khoản nợ trên.
- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Ngô Quang D tại phiên tòa: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, e, s, x khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 65 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 1, Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 cho bị cáo D được hưởng án treo.
- Tại phiên tòa bị cáo D nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai, bị cáo rất hối hận, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.
- Tại phiên tòa bị cáo H nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Dầu Tiếng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Quang D và bị cáo Nguyễn Tiến H khai nhận như sau: Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 22/12/2018, D nhờ H đi mua thuốc lá cho D. H đồng ý. Trên đường đi mua thuốc lá thì H bị Nguyễn Thanh T chặn đường và dùng từ ngữ thô tục chửi H. H không nói gì và điều khiển xe chạy về gặp D. Lúc này, D ngồi trong lô cao su nhìn ra đường thì thấy có nhiều ánh đèn của xe mô tô nên D nghĩ rằng có người chặn đường và gây sự với H nên D cầm 01 cây rựa (có cán bằng gỗ dài khoảng 30cm, đường kính 03 cm, lưỡi làm bằng kim loại dài 35cm, rộng 5,5cm) đi bộ ra đường, đi được một đoạn thì D gặp H điều khiển xe chạy về và H kể lại sụ việc cho D nghe nên D kêu H điều khiển xe mô tô hiệu Winner màu đen, biển số 61C1-851.64 chở D ngồi sau cầm theo cây rựa trên tay để tìm T và giải quyết mâu thuẫn với T. Khi đến khu vực vựa phân Hoài Thương, H và D thấy T đang điều khiển xe mô tô hiệu Honda biển số 52LA-6046 chạy phía trước nên H điều khiển xe chạy vượt qua và chặn đầu xe T lại. Tại đây, D cự cãi với T về việc T chặn đường và chửi H. Trong lúc cự cãi nhau T dùng tay đánh D nhưng không trúng, D cầm rựa chém liên tiếp 02 cái vào người T, T đưa tay trái lên đỡ thì bị chém trúng tay trái gây thương tích.
Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo, bị hại trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Thương tích của bị hại T được Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bình Dương kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 19% theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 44/2019/GĐPY ngày 28/01/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bình Dương. Như vậy, có căn cứ kết luận Cáo trạng số 38/CT-VKSDT ngày 29/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng truy tố các bị cáo Ngô Quang D và Nguyễn Tiến H về tội Cô y gây thương tich theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực để nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, thế nhưng các bị cáo vẫn cố y thực hiện. Thê hiên bằng việc bị cáo D cầm rựa bằng tay phải chém 02 cái vào người bị hại T, nhưng bị hại T giơ tay trái lên đỡ nên bị bị cáo chém trúng tay trái gây thương tích vơi ti lê la 19% theo Kết luận giám định Pháp y sô 44/2019/GĐPY ngày 28/01/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bình Dương. Do bị cáo D dùng rựa là loại hung khí nguy hiểm gây ra nên đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; hướng dẫn tại Mục 3 Nghị Quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
[4] Xét hành vi và tính chất phạm tội của các bị cáo thì vụ án có tính đồng phạm giản đơn. Các bị cáo thực hiện tội phạm một cách bộc phát, không có sự phân công, tổ chức chặt chẽ cho từng thành viên. Tuy nhiên để cá thể hóa hình phạt cho từng bị cáo thì phải xem xét vai trò cụ thể của mỗi bị cáo khi thực hiện tội phạm:
- Đối với bị cáo D: Khi nghe bị cáo H nói bị T chặn đường và dùng những lời thô tục chửi H thì D kêu H điều khiển xe mô tô hiệu Winner màu đen, biển số 61C1-851.64 chở D ngồi sau cầm theo cây để tìm T và giải quyết mâu thuẫn với T. Bị cáo còn trực tiếp dùng rựa chém T gây thương tích. Nên trong vụ án bị cáo tham gia với tư cách là người rủ rê, lôi kéo và là người thực hành. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 26/9/2016 bị Công an huyện Dầu Tiếng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác bằng hình thức phạt tiền; Ngày 26/02/2019 Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng đình chỉ vụ án về hành vi “Cố ý gây thương tích” do bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tự nhận thức, sửa chữa lỗi lầm của mình và giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.
- Đối với bị cáo Nguyễn Tiến H: Khi được bị cáo D kêu chở đi tìm T để giải quyết mâu thuẩn bị cáo đã không can ngăn mà còn đồng tình. Do đó bị cáo tham gia với tư cách là người giúp sức cho bị cáo D thực hiện tội phạm.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không chỉ trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của bị hại một cách trái pháp luật mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo như: Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra các bị cáo còn có tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự như: Bị hại có đơn xin bãi nại và tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; bị hại có một phần lỗi; bị cáo D có mẹ là người có công cách mạng, có con nhỏ; bị cáo H có mẹ là người có công cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị hạn chế khả năng lao động, có cha ruột bị bệnh nặng, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Xét ý kiến luận tội của Viện kiểm sát về tội danh là phù hợp nên chấp nhận.
Tuy nhiên Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là chưa phù hợp nên không chấp nhận.
Về mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo D từ 30 – 36 tháng tù và bị cáo H từ 26 - 29 tháng tù là quá nghiêm khắc. Xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên cần xử phạt các bị cáo mức án nhẹ hơn đề nghị của Viện kiểm sát cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.
Riêng bị cáo H, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt; bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và xét thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt. Do đó Viện kiểm sát đề nghị cho hưởng án treo là có cơ sở chấp nhận.
[6] Xét ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Ngô Quang D là không phù hợp nên không chấp nhận.
[7] Vê trach nhiêm dân sự: Các bị cáo D, H đã tự nguyện bồi thường cho bị hại T chi phí điều T với số tiền 38.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị hại T yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm chi phí điều T là 10.000.000 đồng, các bị cáo đồng ý bồi thường nên ghi nhận.
[8] Về vật chứng:
- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu đen, biển số 61C1-851.64, số máy 1203935, số khung 356627. Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do Nguyễn Tiến H đứng tên chủ sở hữu. Xét thấy, đây là phương tiện H sử dụng để thực hiện tội phạm nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. - Đối với 01 (một) cây Rựa dài 65cm, cán bằng gỗ dài 30cm, đường kính cán gỗ 03cm, lưỡi rựa rộng 5,5cm, hẹp dần về cán. Xét thấy, cây rựa là tài sản hợp pháp của D và là hung khí D sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.
- Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS yêu cầu được nhận xe để thanh lý thu hồi vốn là không phụ hợp nên không chấp nhận. Đối với giấy đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu đen, biển số 61C1-851.64, số máy 1203935, số khung 356627 hiện Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS đang giữ cần buộc Công ty giao nộp để xử lý.
[9] Án phí hình sự, dân sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Ngô Quang D, bị cáo Nguyễn Tiến H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Ngô Quang D 02 (hai) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2019.
- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến H 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Tiến H cho Ủy ban nhân dân xã MH, huyện D, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, bị cáo Nguyễn Tiến H cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự; Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Buộc các bị cáo Ngô Quang D và Nguyễn Tiến H liên đới bồi thường cho bị hại Nguyễn Thanh T số tiền là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bị hại T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo D, bị cáo H không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng bị cáo D, bị cáo H còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner, màu đen, biển số 61C1-851.64, số máy 1203935, số khung 356627 (tình trạng xe tại thời điểm giao nhận vật chứng: Xe không có gương chiếu hậu bên phải, đã cũ, có nhiều vết trầy xước trên xe).
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Rựa dài 65cm, cán bằng gỗ dài 30cm, đường kính cán gỗ 03cm, lưỡi rựa rộng 5,5cm, hẹp dần về cán.
- Buộc Công ty tài chính Trách nhiệm hữu hạn MS giao nộp 01 giấy đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu đen, biển số 61C1-851.64, số máy 1203935, số khung 356627 để xử lý theo thẩm quyền.
4. Án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:
- Áp phí hình sự sơ thẩm:
+ Buộc bị cáo Ngô Quang D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
+ Buộc bị cáo Nguyễn Tiến H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc bị cáo Ngô Quang D và Nguyễn Tiến H liên đới chịu 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng).
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 43/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 43/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về