Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 12/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 43/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 26 tháng 6 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2019, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2019 và và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ng Th, sinh năm: 1982

Bị đơn: Anh Đặng Văn Ph, sinh năm 1973

Cùng địa chỉ: Số nhà 272, Tổ 3, ấp B, xã X, huyện P, tỉnh N.

(Chị Th đề nghị xét xử vắng mặt; anh Ph vắng mặt không rõ lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/02/2019, lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ng Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh Ph tự nguyện tìm hiểu và sống chung với nhau từ năm 1998, nhưng đến năm 2002, chị và anh Ph mới đến Ủy ban nhân dân xã X, huyện P đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 31/12/2002.

Đời sống hôn nhân của vợ chồng chị không được hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm, không chia sẽ được với nhau các vấn đề trong cuộc sống, hơn nữa do kinh tế gia đình khó khăn nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột. Đến năm 2015, chị và anh Ph đi làm ăn ở tỉnh Lâm Đồng mục đích là để cải thiện kinh tế gia đình nhưng tình hình không gì thay đổi nên sau đó vợ chồng chị lại trở về xã, huyện P. Cũng từ thời gian này mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn, từ năm 2016 cho đến nay chị và anh Ph đã không còn sống chung với nhau. Trong thời gian không sống chung, vợ chồng không ai quan tâm đến ai, nay chị Th nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Đặng Văn Ph.

Về con chung: Vợ chồng có 03 (ba) con chung Đặng Minh Ng, sinh ngày 21/3/2000; Đặng Thị Cẩm T, sinh ngày 27/7/2005; Đặng Thị Kim D, sinh ngày 29/02/2008. Khi ly hôn, chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các cháu Tiên, D, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với cháu Ng hiện đã thành niên và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Theo chị Th, vợ chồng không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Đặng Văn Ph mặc dù được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong quá trình chuẩn bị xét xử không có ý kiến, đồng thời vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

Để chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình, nguyên đơn đã nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu chứng cứ sau: Giấy chứng minh nhân dân (bản sao); sổ hộ khẩu của gia đình (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); giấy khai sinh của con chung (bản sao); lời khai của nguyên đơn tại bản tự khai; đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp Tòa án đã tiến hành sao gửi hợp lệ cho bị đơn.

Để giải quyết vụ án, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Bản tự khai của bị đơn; các biên bản xác minh ngày 15/4/2019, về tình trạng hôn nhân của các đương sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Bị đơn chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận cho chị Th ly hôn với anh Ph; về con chung: Đề nghị giao hai con chung Đặng Thị Cẩm T, sinh ngày 27/7/2005; Đặng Thị Kim D, sinh ngày 29/02/2008 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Ph do chị Th không yêu cầu; đối với cháu Đặng Minh Ng, sinh năm 2000, hiện đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét. Về nợ chung: Chị Th khai không có, nên không xem xét; đối với anh Ph nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Ng Th khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Đặng Văn Ph, tranh chấp về nuôi con chung là Đặng Thị Cẩm T, sinh ngày 27/7/2005; Đặng Thị Kim D, sinh ngày 29/02/2008. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Đặng Văn Ph có nơi cư trú tại xã Phú Xuân, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ng Th vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Đặng Văn Ph là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Th, anh Ph được xác lập trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Xuân, huyện Tân Phú vào ngày 31/12/2002, vào sổ số 87, quyển số 01, do đó đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

[4] Đời sống hôn nhân của vợ chồng chị Th, anh Ph thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không thông cảm và chia sẻ cho nhau những khó khăn trong cuộc sống. Từ khoảng cuối năm 2016 đến nay, chị Th, anh Ph đã không còn không sống chung, vợ chồng không ai quan tâm đến ai, không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ chung của vợ chồng.

[5] Đối với bị đơn anh Đặng Văn Ph, qua xác minh tại địa Ph nơi bị đơn cư trú, xác định anh Ph có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa Ph, vẫn sinh sống và thường xuyên có mặt tại địa chỉ như nguyên đơn cung cấp nhưng cố tính né tránh. Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, giấy báo và các văn bản tố tụng khác (Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử) cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn không đến Tòa án làm việc, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, tự từ bỏ quyền của đương sự. Mặt khác, điều này cũng thể hiện anh Ph không có thiện chí để hòa giải đoàn tụ gia đình với chị Th.

[6] Từ những lý do nêu trên, xác định được chị Th, anh Ph trong quá trình sống chung đã không còn thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình thì yêu cầu ly hôn của chị Th đối với anh Ph là có cơ sở.

[7] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Th, anh Ph có 03 (một) con chung là Đặng Minh Ng, sinh ngày 21/3/2000; Đặng Thị Cẩm T, sinh ngày 27/7/2005; Đặng Thị Kim D, sinh ngày 29/02/2008. Khi ly hôn, chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung Đặng Thị Cẩm T, Đặng Thị Kim D. Xét yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung chưa thành niên của chị Th là có căn cứ, bởi lẽ, sau khi vợ chồng không còn sống chung thì các con chung do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng. Hơn nữa các con chung đều có nguyện vọng được sống với chị Th nên thiết nghĩ giao các con chung cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, đảm bảo việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và định hướng nghề nghiệp về sau cho các con. Đối với con chung Đặng Minh Ng, sinh ngày 21/3/2000 hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về tài sản chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Chị Th khai không có, nên không xem xét; đối với anh Ph nếu có yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung đối với chị Th thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[9] Về án phí: Chị Th là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, do đó chị Th phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147, và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[10] Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân Gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ng Th về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” đối với anh Đặng Văn Ph.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ng Th và anh Đặng Văn Ph.

2. Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao con chung Đặng Thị Cẩm T, sinh ngày 27/7/2005; Đặng Thị Kim D, sinh ngày 29/02/2008 cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Tạm thời anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Th không có yêu cầu. Đối với con chung Đặng Minh Ng, sinh ngày 21/3/2000 đã thành niên và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân nên không nên không xem xét, giải quyết.

Anh Ph có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây trở ngại. Vì lợi ích của con chung các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung, chị Th khai không có, nên không xem xét, giải quyết. Dành quyền khởi kiện về chia tài sản chung của vợ chồng bằng vụ án khác cho anh Ph nếu anh Ph có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ng Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Th đã nộp tạm ứng theo biên lai thu số 006418 ngày 28/02/2019 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Chị Th đã nộp đủ án phí.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

5. Về quyền kháng cáo: Chị Th, anh Ph có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 12/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:43/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;