Bản án 43/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 39/2018/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2018/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Như N, sinh năm 1986 tại Hà Nam; Nơi cư trú: thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Như T và bà Lê Thị M; Vợ: Phạm Thị Th; con: có hai con con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án: không; tiền sự: Ngày 22/12/2017 bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm vè ma túy Công an tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính dưới hình thức cảnh cáo về hành vi “Cất trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/12/2017 và chuyển tạm giam từ ngày 04/01/2018 đến nay; Có mặt.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Anh Q, sinh năm 1994. Trú tại: Tổ 8, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 29 tháng 12 năm 2017 Nguyễn Như N đang ở khu vực thôn H, xã Th, huyện T, tỉnh Hà Nam thì gặp bạn nghiện mới quen tên Tr, khoảng 40 tuổi ở phường T, thành phố P (N không biết rõ địa chỉ cụ thể). Tr rủ N đi mua ma túy sử dụng, N đồng ý. Tr điều khiển xe máy chở N đến thành phố P tìm chỗ mua ma túy. Khi Tr và N đi đến khu vực trạm bơm M thuộc tổ dân phố M, phường L, thành phố P thì Tr dừng lại bảo N xuống xe đứng ở đó  chờTr Tr điều khiển xe máy đi khoảng 15 phút sau quay lại gặp N bảo N lên xe máy Trg chở đi mua xi lanh để sử dụng ma túy. Khi Tr chở N đi đến một hiệu thuốc tân dược thuộc tổ 7 phường L, thành phố P thì Tr dừng xe lại đưa cho N 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và số tiền 20.000đ. N cầm vỏ bao thuốc lá Thăng Long và số tiền 20.000đ Tr đưa, rồi Tr điều khiển xe máy đi. N đi vào hiệu thuốc tây nhưng không mua được xi lanh liền quay lại đi được một đoạn thì gặp tổ công tác Công an phường L yêu cầu kiểm tra, N liền vứt vỏ bao thuốc lá Thăng Long đang cầm trên tay xuống mặt đường ngay cạnh chân. Lực lượng Công an kiểm tra phát hiện 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ N khai nhận đó là gói ma túy cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng công an đã đưa Nguyễn Như N cùng vật chứng về trụ sở để lập biên bản theo quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ nhựa màu đen và số tiền 20.000đ.

Tại bản kết luận giám định số 242/PC54-MT ngày 31/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “ Chất bột màu trắng dạng cục trong mẫu ký hiệu QT01 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, trọng lượng 0,235 gam. Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ” Ngày 30/12/2017 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý ra lệnh khám xét khẩn cấp đối với nơi ở, đồ vật, tài sản của Nguyễn Như N. Quá trình khám xét ko thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Tại bản cáo trạng số 52/CT-VKSTP ngày 21/3/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Như N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng, không phạt tiền bổ sung bị cáo.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 29/12/2017 tại tổ 7, phường L, thành phố P, lực lượng Công an phường L phát hiện bắt quả tang Nguyễn Như N đang tàng trữ trái phép 0,235 gam Heroine mục đích để sử dụng (Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ). Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.
[3] Đánh giá về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.
Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, tháng 12 năm 2017 bị xử phạt vi phạm hành chính cảnh cáo về hành vi cất giữ trái phép chất ma túy chưa được xóa nay tiếp tục phạm tội.
Khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tại phiên tòa gia đình bị cáo có đơn trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi phạm tội đủ để cải tạo chính bị cáo và phòng ngừa chung trong cộng đồng. Xét mục đích phạm tội không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng: đối với toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ của Nguyễn Như N được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01 là mẫu vật hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen là tài sản hợp pháp của N không liên quan đến vụ án cần trả lại cho N. Đối với số tiền 20.000đ là số tiền người đàn ông tên Tr đưa cho N để mua xi lanh sử dụng ma túy nên phải tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[5] Các tình tiết khác của vụ án: Đối với người đàn ông tên Tr khoảng 40 tuổi ở phường T, thành phố P đi mua ma túy cùng N, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, nhân thân nên không có căn cứ để HĐXX xử lý trong vụ án này.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14.Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 41; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999. Áp dụng các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Căn cứ Luật phí và lệ phí của Quốc hội. Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Như N 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tínhtừ ngày 29/12/2017.

2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong mặt trước ghi “mẫu vật hoàn trả QT01, số 242/PC54-MT”. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen model 1280, số Imei:354338/04/396169/3. Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 20.000đ.

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 22/3/2018 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý và ủy nhiệm chi số 41 lập ngày 26/3/2018.

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 12/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;