TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 183/2017/HSST NGÀY 15/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN, TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 15 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 193/2017/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Lò Thị H. Sinh năm 1984. Tại: Đ.
Tên gọi khác: Không
Nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Bản X, xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hoá: Không
Bố đẻ: Lò Văn K; Mẹ đẻ: Quàng Thị Á;
Chồng: Lò Văn C.
Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2005.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21/4/2017. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
2. Họ và tên: Vì Văn X. Sinh năm 1944. Tại: Đ.
Tên gọi khác: Không
Nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Bản X, xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hoá: 7/10
Bố đẻ: Vì Văn M (đã chết); Mẹ đẻ: Vì Thị D (đã chết)
Vợ: Lò Thị X.
Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 1968, con nhỏ sinh năm 1990.
Tiền án; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/4/2017 đến ngày 01/5/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người bào chữa cho bị cáo Lò Thị H: Bà Lê Thị X - Là Luật sư cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ (có mặt)
NHẬN THẤY
Các bị cáo Lò Thị H, Vì Văn X bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 20/4/2017, Lò Thị H đang ở nhà thì có một người đàn ông dân tộc H' Mông vào nhà thỏa thuận và bán cho Hơn 08 gói nhỏ, trong đó có 07 gói hêrôin được gói bằng nilon màu xanh; 01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng mở tiếp đến là lớp nilon màu đen mở bên trong có các cục Methamphetamine và một cục hêrôin. Toàn bộ số ma túy trên được đựng trong hộp DOUBLEMINT bằng kim loại có vỏ màu xanh với giá 800.000 đồng. H cất toàn bộ số ma túy mua được vào đầu giường dưới đệm ngủ của H. Mục đích để bán lại cho người khác. Đến khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày khi H đang ở nhà thì có Vì Văn X đến hỏi H "có hêrôin không bán cho 260.000 đồng" H trả lời "có". X lấy 260.000 đồng đưa cho H, H nhận tiền và vào trong buồng lấy trong hộp đựng ma túy 01 gói hêrôin được gói bằng nilon màu xanh đưa cho X. X nhận gói hêrôin đi ra khỏi nhà H. Hồi 17 giờ cùng ngày khi X đi đến khu vực đầu bản X, xã P thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Huổi Puốc phát hiện bắt quả tang thu giữ trong tay trái của X 01 gói hêrôin gói bên ngoài gói bằng nilon màu xanh.
Hồi 09 giờ ngày 21/4/2017, tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Huổi Puốc khám xét khẩn cấp nơi ở của Lò Thị H, H đã lấy gói ma túy cất giấu dưới đệm đầu giường ngủ ném xuống phía đống củi dưới gầm sàn nhà. Qua khám xét, tổ công tác đã thu giữ tại đống củi nhà H một hộp DOUBLEMINT bằng kim loại có vỏ màu xanh bên trong có 07 gói nhỏ trong đó có 06 gói hêrôin được gói bằng nilon màu xanh và 01 gói được gói bằng giấy bạc màu vàng mở tiếp đến là lớp nilon màu đen bên trong có chứa các cục Methamphetamine và 01 cục hêrôin.
Tại các biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng ngày 22/4/2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên và các bản kết luận giám định số: 435/GĐ-PC54 ngày 25/5/2017; số 445/GĐ-PC54 ngày 28/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định số vật chứng thu giữ của Vì Văn X có trọng lượng 0,87 gam là hêrôin. Số vật chứng thu giữ của Lò Thị H gồm: Các cục chất bột màu trắng có trọng lượng 1,00 gam là hêrôin; Các cục bột nén màu hồng có trọng lượng 0,15 gam là Methamphetamine.
Tại bản Cáo trạng số 132/QĐ-VKS-HS ngày 27/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Thị H về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Vì Văn X về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự ; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Thị H từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự; điểm m, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự; Khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa XIV. Xử phạt bị cáo Vì Văn X từ 12 tháng đến 18 tháng tù; Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm a, Điểm c, Điểm đ Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 1,87 gam hêrôin (đã trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,15 gam Methamphetamine (đã gửi toàn bộ giám định không hoàn lại mẫu). Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 260.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có. Tịch thu tiêu hủy 01 hộp DOUBLEMINT bằng kim loại có vỏ màu xanh. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Áp dụng Điều 99/BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và lời luận tội của Kiểm sát viên.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Lò Thị H hoàn toàn nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố là hoàn toàn đúng người đúng tội, tuy nhiên đề nghị HĐXX xem xét về nhân thân cũng như điều kiện bị cáo H phạm tội. Hoàn cảnh kinh tế của gia đình Hơn rất khó khăn, bản thân là lao động chính trong gia đình, chồng H sử dụng ma túy nên không có khả năng lao động, bố chồng bị cáo được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Hơn đã thành khẩn khai báo nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự cho Lò Thị H. Và đề nghị HĐXX xử phạt H mức khởi điểm của khung hình phạt.
Kiểm sát viên không nhất trí với đề nghị của người bào chữa vì: Chồng bị cáo có sử dụng ma túy nhưng vẫn có khả năng lao động nên bị cáo không phải là lao động chính trong gia đình, bố chồng của bị cáo được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, theo hướng dẫn tại Mục 5 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000 đây không phải là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; các bị cáo; người bào chữa.
XÉT THẤY
Qua phần xét hỏi công khai tại phiên toà, một lần nữa đủ cơ sở khẳng định: Ngày 20/4/2017, Bị cáo Lò Thị H đã trực tiếp mua hêrôin và Methamphetamine với giá 800.000 đồng, mục đích để bán lại cho người khác kiếm lời. Cụ thể bị cáo đã bán cho bị cáo Vì Văn X 01 gói hêrôin thu được số tiền 260.000 đồng. Số hêrôin còn lại có trọng lượng 1,0 gam và Methamphetamine có trọng lượng 0,15 gam bị cáo đang tàng trữ với mục đích để bán kiếm lời thì bị tổ công tác đồn Biên phòng cửa khẩu Huổi Puốc phát hiện và thu giữ.
Bị cáo H đã bán 0,87 gam hêrôin cho bị cáo X và tàng trữ 1,0 gam hêrôin với mục đích để bán vì vậy bị cáo Hơn phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng trọng lượng hêrôin đã thu giữ là 1,87 gam. Bị cáo H đã cất giấu 02 chất ma túy gồm 1,87 gam hêrôin, 0,15 gam methamphetamine nhưng sau khi quy đổi tổng tỉ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy so với mức tối thiểu quy định tại các điểm h, m Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là dưới 100% (38,15%). Vì vậy hành vi của bị cáo H đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy đinh tai Khoan 1 Điêu 194 Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo Vì Văn X mua 0,87 gam hêrôin với mục đích để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Vì vậy hành vi đó của bị cáo X đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy đinh tai Khoản 1 Điêu 194 Bộ luật hình sự năm 1999 và quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Cáo trạng của VKSND huyện Điện Biên truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm tới nền trật tự trị an an toàn xã hội, làm lan tràn tệ nạn nghiện ma tuý trên địa bàn, đồng thời tiếp tay cho những người chuyên mua bán các chất ma tuý tôn tai va phat triên.
Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đều thành khẩn khai nhận nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo X khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã trên 70 tuổi. Bị cáo đã từng tham gia thanh niên xung phong, năm 2001 bị cáo được Ban chấp hành Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tặng thưởng kỷ niệm chương thanh niên xung phong, nên bị cáo X được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm m khoản 1 khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo H đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo H không phải là lao động chính trong gia đình vì bị cáo có chồng là Lò Văn C hiện nay có khả năng lao động sản xuất. Bố chồng của bị cáo được nhà nước tặng thưởng huân huy chương nhưng theo hướng dẫn tại Mục 5 Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000, đây không phải là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa
Các bị cáo đều nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm. Do vây đê các bị cáo có thời gian suy nghĩ làm lại cuộc đời , sông co ich cho gia đinh va xa hôi thi cân có hình phạt nghiêm khắc cach ly các bị cáo ra khoi xa hôi môt thơi gian.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự, ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập chính từ làm ruộng nên khó có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Theo quy đinh tai Khoan 1 Điêu 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 02 năm tù đến 07 năm tù. Nhưng với khối lượng hêrôin bị cáo X tàng trữ theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 01 năm tù đến 05 năm tù. So với Bộ luật hình sự năm 1999 thì quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi cho bị cáo X. Vì vậy mặc dù Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 chưa có hiệu lực nhưng Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015 và Điểm h Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, về các quy định có lợi cho người phạm tội để xem xét áp dụng mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo X.
Nguồn gốc số hêrôin và methamphetamine thu giữ, bị cáo H khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông, bị cáo không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ được. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
Vật chứng gồm 1,87 gam hêrôin (đã trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,15 gam methamphetamine (đã gửi giám định toàn bộ không hoàn lại) cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự
Sô tiên 260.000 đồng là tiền bị cáo H phạm tội mà có cân tich thu sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; Điểm c khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với 01 hộp DOUBLEMINT bằng kim loại có vỏ màu xanh bị cáo dùng để cất giấu ma túy, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.
Về án phí: Theo quy định Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, đã có đơn xin miễn án phí nên theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị H phạm tội " Mua bán trái phép chất ma tuý" Bị cáo Vì Văn X phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma tuý"
- Áp dụng Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự; Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Thị H 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 21/4/2017.
- Áp dụng Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa XIV; Khoản 3 Điều 7; Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điểm m, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
Xử phạt bị cáo Vì Văn X 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt hoặc tự giác đi thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam là 12 ngày.
2. Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 41/BLHS; Điểm a, Điểm c, điểm đ Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự
- Tịch thu tiêu huỷ 1,87 gam hêrôin (đã trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại) và 0,15 gam methamphetamine (đã gửi giám định toàn bộ không hoàn lại)
- Tịch thu tiêu huỷ 01 hộp DOUBLEMINT bằng kim loại có vỏ màu xanh
Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 01/8/2017)
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước của bị cáo H số tiền 260.000 đồng là tiền bị cáo H do phạm tội mà có
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bị cáo Hơn còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
3. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm
Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/8/2017) .
Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự báo cho người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự biết: Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 183/2017/HSST ngày 15/08/2017 về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 183/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về