Bản án 42/2020/HSST ngày 19/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 42/2020/HSST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Thít tỉnh Vĩnh Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2020/HSST, ngày 05 tháng 10 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42 / 2020 / QĐXXST- HS, đối với bị cáo: Cao Văn T, sinh năm 1993 tại Trạm y tế xã L. Nơi ĐKHKTT: ấp I, xã L, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long; Trình độ học vấn: Lớp 11/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Cao Thành M và bà Lê Thị R. Anh, chị, em ruột 03 người lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất là bị cáo. Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang theo biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 20/7/2020 và được trả tự do cùng ngày theo quyết định số 28/CSĐT, ngày 20/7/2020. Hiện nay bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

Tiền sự, tiền án: Không có. Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử lý vi phạm hành chính, không bị xử lý kỷ luật đã được xóa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Phạm Công O, sinh năm 1997. Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long

2. Phùng Văn X, sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp C, xã D, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long.

3. Võ Nguyên S, sinh năm 1997. Địa chỉ: ấp E, xã F, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do quen biết nhau qua mạng xã hội, vào khoảng 17 giờ ngày 19/7/2020, bị cáo Cao Văn T, sinh năm 1993 điều khiển xe mô tô 64G1-ABC.XY đến quán cà phê gần dốc cầu AZ, thuộc huyện AX, tỉnh Bến Tre, gặp một đối tượng tên Tiến (không rõ họ tên và địa chỉ) để đổi một con gà trống tre lấy ma túy. Giao dịch xong bị cáo T để ma túy vào gói thuốc Jet đem về cất giấu tại đầu đường dal dưới dốc cầu AC thuộc ấp I, xã L, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long và về nhà, tắm, ngủ. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T điều khiển xe 64G1-ABC.XY đến chỗ cất giấu ma túy, lấy bịch ma túy nhét vào túi quần Jean, phía trước bên trái, chạy đến nhà Phùng Văn X, sinh năm 1995 cư ngụ: ấp C, xã D, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Khi vào phòng ngủ của X, thấy X và Võ Nguyên S, sinh năm 1997, cư ngụ: ấp E, xã F, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long nằm chơi game trên điện thoại. Lúc này, Thật nhìn thấy dụng cụ sử dụng ma túy (nỏ thủy tinh) có sẵn trong phòng, nên cắt lấy một lượng ma túy bỏ vào nỏ thủy tinh, khối lượng ma túy còn lại tiếp tục cất giấu trên người. Bị cáo T dùng bật lửa đốt ma túy và hút một mình, S và X đang chơi game nhìn thấy nên ngồi dậy và tham gia hút được khoảng 04 đến 05 hơi thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ trên người Cao Văn T01 (một) bịch nilon đã hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy và niêm phong để giám định.

Tại bản kết luận giám định số 346/KLĐG-PC09 ngày 22/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận như sau:

Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) bịch nylon được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,1324 gam, loại: Methamphetamine.

Ngày 28/7/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mang Thít quyết định khởi tố bị can đối với Cao Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong quá trình điều tra Cao Văn T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can.

Về vật chứng của vụ án:

Đối với chất ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định: 1,0791 gam; 01 (một) bộ sử dụng ma túy gồm: một chai nhựa có nắp màu đỏ, có gắn đoạn ống hút và đoạn ống thủy tinh có một đầu hình tròn; 01 (một) bật lửa màu đen có liên quan trực tiếp trong vụ án nên tiếp tục tạm giữ để xử lý.

Trả lại 01 (một) điện thoại di động Nokia, màu đen có 02 sim số: 0938344409 và 0793980830; Tiền Việt Nam đồng: 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) đã trả bị cáo T do không liên quan đến vụ án.

Đối với xe mô tô biển số 64G1-ABC.XY. Cơ quan điều tra xác định là tài sản bị cáo mượn từ Phạm Công O, sinh năm: 1997, cư ngụ: ấp A, xã B, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, khi mượn xe bị cáo T nói đi đám, anh Lợi không biết bị cáo đi mua ma túy và tàng trữ trái phép nên đã trả lại xe.

Đối Phùng Văn X và Võ Nguyên S có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, việc Thật tàng trữ trái phép chất ma túy thì các đối tượng trên không biết nên cơ quan điều tra không xử lý về trách nhiệm hình sự và đã bàn giao cho Công an xã D ra Quyết định xử phạt T phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Đối với người bán ma túy cho bị cáo có tên thường gọi là Tiến (quê ở huyện AX, tỉnh Bến Tre) không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể, Cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi làm việc được sẽ xử lý sau.

Đối với chủ hộ Nguyễn Thị ĐE, sinh năm 1958, cư ngụ: ấp C, xã D, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, là mẹ Phùng Văn X, khi các đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà, bà ĐE hoàn toàn không hay biết nên không xử lý.

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKS, ngày 02 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít truy tố bị cáo Cao Văn T về tôi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm C khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm C khoản 1 điều 249; Điều 38; 50; Điểm S khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị tuyên bố bị cáo Cao Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Thật.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm C khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy (Methamphetamine) hoàn lại sau giám định đã niêm phong; 01 chai nhựa có nắp màu đỏ, có gắn đoạn ống hút và đoạn ống hút thủy tinh, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2020.

Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo T nộp 200.000đồng.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy như sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện tại xã D, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long nên Tòa án nhân dân huyện Mang Thít xét xử là đúng theo quy định tại Điều 269 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[1.2] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Mang Thít, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mang Thít, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình Điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Tại phiên toà, bị cáo Thật khai nhận: Do quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook vào khoảng 17 giờ ngày 19/7/2020, bị cáo Cao Văn T điều khiển xe mô tô 64G1-ABC.XY đến quán cà phê gần dốc cầu AZ, thuộc huyện AX, tỉnh Bến Tre, gặp một người tên Tiến (không rõ họ tên và địa chỉ), đổi một con gà trống tre cho Tiến lấy ma túy. Sau khi nhận ma túy, Thật để vào gói thuốc Jet mục đích để sử dụng, sau đó bị cơ quan Công an bắt giữ, lúc bị bắt Thật tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 1,1324 gam, loại: Methamphetamine.

Xét, lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với nội dung bản cáo trạng và lời buộc tội của vị đại diện Viện kiểm sát tại toà, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết quả giám định và phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận Cao Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm C khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Như chúng ta đều biết, ma túy là chất hướng thần. Người sử dụng sẽ bị kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, người sử dụng nhiều sẽ gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, dễ bị kích động thần kinh theo hướng tiêu cực, làm suy giảm khả năng lao động, dễ dẫn đến những tệ nạn xã hội khác nhu: Trộm cắp, cướp giật hoặc là một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh HIV. Nhà nước thống nhất quản lý và nghiêm cấm những hành vi trồng, sản xuất, vận chuyển, tàng trữ, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy. Mọi hành vi vi phạm đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo là người đã sử dụng trái phép chất ma túy mà còn có hành vi lôi kéo người khác cùng sử dụng, gây ảnh hưởng đến nhiều người. Hành vi của bị cáo không những vi phạm pháp luật mà còn gây bất bình trong xã hội, làm mất trật tự ở địa phương. Đi ngược lại chủ trương của Đảng và Nhà nước về cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Vì thế cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, xét bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Do bị cáo không có việc làm, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy chất ma túy (Methamphetamine) được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long hoàn lại sau giám định niêm phong và 01 chai nhựa có nắp màu đỏ, có gắn đoạn ống hút và đoạn ống hút thủy tinh, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2020.

[3] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Văn T phạm tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng Điểm C Khoản 1 Điều 249; Điều 38, 47, 50 điểm S khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án. Xử:

Phạt bị cáo Cao Văn T01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo vào trại chấp hành bản án này.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Cao Văn T vì bị cáo không có thu nhập ổn định.

2. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy Chất ma túy (Methamphetamine) hoàn lại sau giám định đã niêm phong; 01 chai nhựa có nắp màu đỏ, có gắn đoạn ống hút và đoạn ống hút thủy tinh, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2020.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Cao Văn T nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được quy định theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng những người vắng mặt báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2020/HSST ngày 19/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;