Bản án 42/2020/HSST ngày 14/05/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 42/2020/HSST NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí M mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 64/2020/HSST ngày 21 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Hà Vũ L; giới tính: Nam, sinh năm 2001 tại tỉnh Đồng Nai; Hộ khẩu thường trú: xã Ia Pết, huyện Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: không ổn định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: Không Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Hà Văn Thắng (sinh năm 1975) và bà Vũ Thị A (sinh năm 1971); Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự : không. Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 13/02/2020 (Có mặt).

Bị hại :

- Ông Nguyễn Quách K, sinh năm 2001; trú tại: 335/28/13 Thống Nhất, Phường 16, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí M (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

-Bà Nguyễn Bích T, sinh năm 1963; Trú tại: 1151/3 khu phố 01, phường Tam Phú, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M (vắng mặt)

- Ông Bùi Nguyễn Huy M, sinh năm 1968; Trú tại: 282/49/9 Bùi Hữu Nghĩa, phường 02, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí M (vắng mặt) - Bà Vũ Thị A, sinh năm 1971; Trú tại: Krongoai IH Đak Đoa, tỉnh Gia Lai ( có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01/11/2019, tại phòng trọ địa chỉ 535/28/13 Thống Nhất, phường 16, quận Gò Vấp, Hà Vũ L mượn xe gắn máy biển số: 59X2-264.10 của anh Nguyễn Quách K để đi công việc thì anh K đồng ý. Khoảng 06 giờ ngày 02/11/2019, L đi xe gắn máy trên quay lại phòng trọ của anh K tuy nhiên L không trả xe cho anh K mà tiếp tục lấy xe đi đám tang người thân. Khoảng 17 giờ cùng ngày, L cùng với Phạm Quốc Toàn – sinh năm: 1998 (Hộ khẩu thường trú: 109/F8 13 Bến Vân Đồn, phường 09, Quận 4, Thành phố Hồ Chí M) đến phòng trọ bạn của Toàn (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) cùng sử dụng ma túy tổng hợp rồi bàn bạc với nhau về việc bán xe gắn máy biển số: 59X2-264.10 lấy tiền tiêu xài. Đến 20 giờ cùng ngày, Toàn và L đến quán cà phê, địa chỉ B12 đường D, Kp5, phường Tam Bình, quận Thủ Đức bán xe gắn máy trên theo dạng xe không giấy tờ cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) được 2.000.000 đồng. Số tiền trên Toàn và L sử dụng chơi điện tử bắn cá thua hết. Sau đó, Toàn đưa cho L 200.000 đồng gọi gọi xe ôm để chở L đến 01 khách sạn nghỉ ngơi. Khoảng 6 giờ 00 ngày 04/11/2019, L có gọi điện cho Toàn để chuộc xe lại, Toàn có hứa sẽ chuộc xe nhưng sau đó thì L không liên lạc được với Toàn nữa.

Sau khi cho mượn xe, anh Nguyễn Quách K nhiều lần liên lạc nhưng L không trả lại xe và chặn điện thoại của anh K nên đến ngày 11/11/2019 anh K đến Công an phường 16 quận Gò Vấp trình báo.

Qua truy xét, ngày 17/11/2019, Công an phường 16 quận Gò Vấp phát hiện mời Hà Vũ L về trụ sở làm việc. Tại cơ quan điều tra, Hà Vũ L khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên và khai nhận bản thân không có khả năng trả lại tài sản cho anh K.

Vật chứng của vụ án:

+ 01 (một) xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số: 59X2-264.10 số khung: RLCS5C640CY-702542, số máy: 5C64-702546 (chưa thu hồi được). Qua xác M, chiếc xe gắn máy trên do chị Nguyễn Thị Bích T đứng tên chủ sở hữu. Đầu tháng 8/2019, chị T giao xe gắn máy trên cho anh Nguyễn Quách K (là cháu của chị T) làm phương tiện đi lại. Tại Kết luận định giá số 319/KL ngày 27/11/2019 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận xe gắn máy trên tại thời điểm ngày 01/11/2019 có giá 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng). Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm chiếc xe gắn máy trên nhưng vẫn chưa có kết quả :

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo vỏ màu hồng, số IMEI 863632031180256, số IMEI 2: 863632031180249; 01 (một) giấy Chứng M nhân dân mang tên Hà Vũ L số 231430757; 01 thẻ visa ngân hàng MSB số: 4022040062372745 tên Ha Vu L. Qua xác M, là tư vật của bị can Hà Vũ L:

+ 01 (một) Giấy đăng ký xe môtô, xe máy số 028306 tên Bùi Nguyễn Huy M, địa chỉ 282/49/9 Bùi Hữu Nghĩa, phường 12, quận Bình Thạnh, biển số xe:

54S3 - 1554 và Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô - xe máy số XM1810000167 của xe gắn máy biển số: 54S3 - 1554. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả số giấy tờ trên cho Bùi Nguyễn Huy M, địa chỉ 282/49/9 Bùi Hữu Nghĩa, phường 12, quận Bình Thạnh (theo quyết định xử lý vật chứng số 57 ngày 04/12/2019 của Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp) + 01 (một) thẻ visa ngân hàng ACB số 4221093799443411 mang tên Vo Tan K Huy đối tượng Hà Vũ L khai nhặt được. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã gửi Công văn số 2569 ngày 21/11/2019 yêu cầu ngân hàng ACB xác M, cung cấp thông tin lai lịch của thẻ visa trên nhưng chưa nhận được kết quả trả lời. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý nhập kho vật chứng để xử lý theo vụ án.

Đối với đối tượng Phạm Quốc Toàn hiện tại không có mặt tại địa phương, căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ cơ sở xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Thông báo truy tìm đối tượng số 204/TB-ĐTTH ngày 19/11/2019 khi nào tìm được đối tượng sẽ tiến hành điều tra, xử lý sau.

Tại cơ quan điều tra Hà Vũ L đã thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 73/Ctr-VKS, ngày 21/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Hà Vũ L về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Hà Vũ L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi phân tích nội dung vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khỏan 1 Điều 175, điểm b,i s khỏan 1, khỏan 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Hà Vũ L mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo - Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo vỏ màu hồng, số IMEI 863632031180256, số IMEI 2: 863632031180249; 01 (một) giấy Chứng M nhân dân mang tên Hà Vũ L số 231430757; 01 thẻ visa ngân hàng MSB số: 4022040062372745 tên Hà Vu L -Tịch thu lưu kho vật chứng 01 (một) thẻ visa ngân hàng ACB số 4221093799443411 mang tên Vo Tan K Huy Qua ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai người bị hại, lời khai của người làm chứng, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 7.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Hà Vũ L đã phạm vào tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung như Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng quen biết và sự tin tưởng của người bị hại, bị cáo cố ý mượn chiếc xe máy của anh K. Khi người bị hại giao xe cho bị cáo một cách hợp pháp thì bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt xe và đem đi bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng tác động xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo chỉ vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo đã lợi dụng lòng tin của người bị hại để thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra nên cần thiết phải xử lý nghiêm, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục cải tạo bị cáo đồng thời cũng nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội, bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình bị cáo đã khắc phục bồi thường cho người bị hại, bị hại có đơn xin bãi nại nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 175 của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đối với đối tượng Phạm Quốc Toàn hiện tại không có mặt tại địa phương, căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa đủ cơ sở xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Thông báo truy tìm đối tượng số 204/TB-ĐTTH ngày 19/11/2019 khi nào tìm được đối tượng sẽ tiến hành điều tra, xử lý sau.

Đối với người đàn ông (không rõ lai lịch) mua chiếc xe của bị cáo. Do chưa xác định được lai lịch nên chưa có cơ sở xử lý, khi nào xác định được sẽ điều tra xử lý sau.

[6] Về trách nhiệm dân sự : Tại phiên tòa, bị hại anh Nguyễn Quách K vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện anh K đã được gia đình bị cáo bồi thường số tiền 9.000.000 đồng, anh K nhận tiền không có yêu cầu gì.

Đối với số tiền 9.000.000 đồng do chị Vũ Thị A là mẹ ruột của bị cáo đứng ra bồi thường. Chị A xác định cho luôn bị cáo số tiền trên không yêu cầu bị cáo trả lại và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số: 59X2-264.10 số khung: RLCS5C640CY-702542, số máy: 5C64-702546 (chưa thu hồi được). Qua xác M chiếc xe do chị Nguyễn Thị Bích T đứng tên chủ sở hữu. Chị T giao xe gắn máy trên cho anh Nguyễn Quách K (là cháu của chị T) làm phương tiện đi lại thì bị chiếm đoạt hiện chưa thu hồi được. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm chiếc xe gắn máy trên nhưng vẫn chưa có kết quả nên Hội đồng xét xử không xem xét.

+ 01 (một) Giấy đăng ký xe môtô, xe máy số 028306 tên Bùi Nguyễn Huy M, biển số xe: 54S3 - 1554 và Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của của xe gắn máy biển số: 54S3 - 1554. Qua xác M bị cáo khai bị cáo mượn xe của anh M nhưng quên chưa trả lại giấy tờ cho anh M. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả số giấy tờ trên cho anh M. Xét, việc trả lại tài sản trên là hợp lệ nên không đưa ra xem xét giải quyết lại.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo vỏ màu hồng, số IMEI 863632031180256, số IMEI 2: 863632031180249; 01 (một) giấy Chứng M nhân dân mang tên Hà Vũ L số 231430757; 01 thẻ visa ngân hàng MSB số: 4022040062372745 tên Ha Vu L. Xét, các giấy tờ trên là tư vật của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

+ 01 (một) thẻ visa ngân hàng ACB số 4221093799443411 mang tên Vo Tan K Huy đối tượng Hà Vũ L khai nhặt được. Cơ quan điều tra đã gửi Công văn yêu cầu ngân hàng ACB cung cấp thông tin lai lịch của thẻ visa trên nhưng chưa nhận được kết quả trả lời. Xét, chiếc thẻ không xác định được thông tin lai lịch của chủ thẻ nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu lưu kho vật chứng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Vũ L phạm tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ”:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Hà Vũ L 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 13/02/2020 Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và khỏan 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo vỏ màu hồng, số IMEI 863632031180256, số IMEI 2: 863632031180249; 01 (một) giấy Chứng M nhân dân mang tên Hà Vũ L số 231430757; 01 thẻ visa ngân hàng MSB số: 4022040062372745 tên Ha Vu L - Tịch thu lưu kho vật chứng 01 (một) thẻ visa ngân hàng ACB số 4221093799443411 mang tên Vo Tan K Huy (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 81/PNK ngày 07/4/2020 của Công an quận Gò Vấp) Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo, người tham gia tố tụng khác có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2020/HSST ngày 14/05/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:42/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;