TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒN ĐẤT, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ YÊU CẦU LY HÔN
Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 81/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020 về việc “Yêu cầu ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2020/QĐXX-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị H, sinh năm 1988 (có mặt)
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1984 (vắng mặt) Các đương sự cùng địa chỉ: Ấp Thái Hưng, xã Mỹ Thái, huyện HĐ, tỉnh KG.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo nội dung đơn xin ly hôn, chị Hà Thị H trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T quen biết, tự tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Thái, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang ngày 02/7/2007. Thời gian chung sống vợ chồng chị sinh được 03 người con chung là Nguyễn Thị Huỳnh Dư, sinh ngày 23/9/2006;
Nguyễn Văn Thừa, sinh ngày 24/12/2008 và Nguyễn Thị Kim Ngân, sinh ngày 14/9/2011.
Về mâu thuẫn gia đình: Chị H cho rằng sau một thời gian chung sống hai bên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi, bất đồng quan điểm. Từ đó dẫn đến việc hai vợ chồng chị sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay.
Do cuộc sống gia đình không đem lại hạnh phúc cho cả hai nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T để mỗi người có cuộc sống riêng của mình.
Ngân.
- Về con chung: Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi 01 con tên Nguyễn Thị Kim - Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Nguyễn Văn T trình bày:
Tôi và cô H mai mối và đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Thái. Trong thời gian chung sống hai bên có phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên hai bên đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nay anh T đồng ý ly hôn và yêu cầu được nuôi cả 03 người con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung và nợ chung: không có Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hà Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T.
2. Xét về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn là do tự nguyện yêu thương và đi đến hôn nhân. Anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Thái, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang theo Giấy chứng nH kết hôn ngày 02/7/2007 là đúng quy định của Luật Hôn nhân gia đình. Do đó, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nH và bảo vệ. Tuy nhiên, trong thời kỳ hôn nhân anh chị phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống chung, dẫn đến việc hai bên sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay, không quan tâm đến cuộc sống của nhau.
Tại phiên tòa hôm nay, chị H xác định không còn tình cảm gì với anh T, không thể hàn gắn cuộc sống chung vợ chồng với anh T nên chị mong muốn được ly hôn để chấm dứt mối quan hệ vợ chồng này.
Hội đồng xét xử (HĐXX) xét thấy: Chị H và anh T hiện tại đang sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến cuộc sống của nhau suốt một thời gian dài từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần mời các bên tham gia phiên hòa giải nhưng anh T không đến tham dự, chứng tỏ anh T cũng không có thiện chí muốn hòa giải với chị H nên khả năng đoàn tụ gia đình giữa anh chị không có. Như vậy, HĐXX có căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nH yêu cầu được ly hôn của chị H.
3. Về con chung: Chị H và anh T có 03 con chung tên Nguyễn Thị Huỳnh Dư, sinh ngày 23/9/2006; Nguyễn Văn Thừa, sinh ngày 24/12/2008 và Nguyễn Thị Kim Ngân, sinh ngày 14/9/2011. Tại phiên tòa hôm nay, chị H cho rằng chị phải đi làm thuê làm mướn, không có khả năng nuôi dưỡng các con nên đồng ý giao các con cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy, từ khi anh chị sống ly thân đến nay thì các con chung đều do anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Tại Bản tự khai, anh T cũng có yêu cầu nuôi cả 03 con. Do đó, để đảm bảo cho các cháu có cuộc sống ổn định, không bị xáo trộn về môi trường sống và phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của các cháu, HĐXX chấp nH giao anh T tiếp tục nuôi dưỡng 03 con chung là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do anh T không có yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.
4. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự đều xác định không có tài sản chung và nợ chung của vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Từ những nH định trên, sau khi thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử chấp nH yêu cầu xin ly hôn của chị Hà Thị H.
5. Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 28, Điều 227, Điều 228 Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Áp dụng khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nH cho chị Hà Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.
2. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn T được tiếp tục nuôi dưỡng 03 con chung tên Nguyễn Thị Huỳnh Dư, sinh ngày 23/9/2006; Nguyễn Văn Thừa, sinh ngày 24/12/2008 và Nguyễn Thị Kim Ngân, sinh ngày 14/9/2011 đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
Chị Hà Thị H được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự xác định không có nên HĐXX không xem xét giải quyết. Nếu sau này các bên có phát sinh tranh chấp về tài sản chung hoặc nợ chung thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu.
4. Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Chị Hà Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang theo biên lai thu số 0009373 ngày 20 tháng 02 năm 2020. Chị H không phải nộp thêm.
Án xử công khai. Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nH được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về yêu cầu ly hôn
Số hiệu: | 42/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hòn Đất - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về