Bản án 42/2018/HSST ngày 20/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 42/2018/HSST NGÀY 20/04/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2018/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

* Bị cáo:

Họ và tên: ĐẶNG ĐÌNH Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1991; Tại: Nam Định; HKTT: Khu phố PT, phường TT, thị xã ĐX, tỉnh BP; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Y - Sinh năm: 1955 và bà Z - Sinh năm: 1963; Bị cáo chưa có vợ và con; Tiền sự: 01 (Ngày 18/4/2017 bị chủ tịch UBND phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước ra Quyết định số 07/QĐ-UBND về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường với thời hạn áp dụng giáo dục là 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy); Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/10/2017 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn Q - Sinh năm 1994 (Vắng mặt);

Trú tại: Tổ 2, khu phố SD, phường TX, thị xã ĐX, tỉnh BP.

2. Ông Khương Quang D - Sinh năm 1971 (Vắng mặt); Trú tại: Khu phố SD, phường TX, thị xã ĐX, tỉnh BP.

3. Ông Võ Thành L - Sinh năm 1982 (Vắng mặt);

Trú tại: Khu phố SD, phường TX, thị xã ĐX, tỉnh BP.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân là đối tượng sử dụng ma túy nên vào các ngày 08/10/2017 và 11/10/2017 bị cáo Đặng Đình Đ đã có 02 lần mua ma túy của người đàn ông tên Huỳnh Nguyễn Hoàng N về để sử dụng và bán lại cho Trần Văn Q 02 lần, cụ thể như sau: 

Lần thứ nhất: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 08/10/2017 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Đ dùng điện thoại hiệu Oppo màu trắng số thuê bao 0942.400.322 nhắn tin qua mạng xã hội Zalo cho Nam hỏi mua 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng) tiền ma túy đá thì N đồng ý bán và hẹn Đ đợi một lát sẽ có người của N liên lạc với Đ để giao nhận ma túy và nhận tiền. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày có một người thanh niên gọi điện thoại giới thiệu là người của N, kêu Đ đi ra con hẻm bên hông siêu thị Điện Máy Xanh thuộc khu phố Phước Thọ, phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài cách nhà Đ khoảng 20m để giao nhận ma túy và tiền thì Đ hiểu là N cho người mang ma túy tới giao cho mình. Đ đi đến chỗ hẹn thấy có 01 (một) người thanh niên (không rõ lai lịch) đang ngồi trên xe mô tô hiệu Honda Winner màu đen. Đ biết người thanh niên này là người vừa gọi điện hẹn Đ giao ma túy nên đi đến đưa cho người thanh niên này số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng). Sau khi nhận tiền xong, người thanh niên này chỉ cho Đ thấy 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu “Caraven” đang nằm dưới đất cách đó khoảng 02m, Đ đi đến nhặt vỏ bao thuốc lá mang về nhà mở ra xem thấy bên trong có 01 (một) gói nylon, kích thước khoảng (01 x 02)cm được hàn kín các mép, bên trong chứa ma túy đá nên lấy ra cất vào ví da. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày Đ lấy 2/3 số ma túy vừa mua được của N bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy để sử dụng, còn 1/3 ma túy còn lại, Đ tiếp tục cất vào ví da để sử dụng và nếu có ai hỏi mua thì bán lại kiếm lời.

Khoảng 22 giờ 00 phút cùng ngày, Q dùng số điện thoại 0914.417.638 gọi điện cho Đ theo số 0942.400.322 hỏi mua 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) ma túy đá, Đ đồng ý bán và hẹn giao nhận tiền và ma túy tại con hẻm bên hông cửa hàng Điện Máy Xanh. Đ lấy gói nylon kích thước khoảng (01 x 02)cm bên trong chứa ma túy đá được cuộn trong mảnh giấy màu xám và bỏ vào vỏ bao thuốc lá hiệu “Craven” đến điểm hẹn. Tại đây Q đưa cho Đ số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) thì Đ đưa vỏ bao thuốc lá hiệu “Caraven’ bên trong có chứa ma túy đá cho Q và đi về nhà.

Lần 2: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/10/2017 sau khi bán ma túy cho Q xong, do hết ma túy để sử dụng và để bán lại cho người khác kiếm lời nên Đ nhắn tin qua mạng xã hội Zalo cho N hỏi mua 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) tiền ma túy đá thì N đồng ý bán và kêu Đ đợi một lát sẽ có người liên lạc giao ma túy. Khoảng 30 phút sau có 01 người thanh niên gọi điện thoại cho Đ giới thiệu là người của N và kêu Đ đi ra hẻm bên hông siêu thị Điện Máy Xanh thuộc khu phố Phước Thọ, phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài để giao nhận tiền và ma túy. Tại đây Đ đưa cho người thanh niên này số tiền 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) thì người thanh niên chỉ cho Đ thấy 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu “Caraven” đang nằm dưới đất, Đ đi đến nhặt vỏ bao thuốc lá mang về nhà mở ra xem thấy bên trong có 01 (một) gói nylon, kích thước khoảng (1,5 x 1,5)cm được hàn kín các mép, bên trong chứa ma túy đá nên lấy ra cất vào ví da. Từ ngày 08/10/2017 đến ngày 11/10/2017 Đ sử dụng hết 2/3 số ma túy còn lại chứa trong bộ dụng cụ sử dụng ma túy mà mua của N trước đó vào lúc 16 giờ ngày 08/10/2017 và tiếp tục sử dụng thêm 2/3 số ma túy đá mua của N vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 08/10/2017, 1/3 số ma túy còn lại Đ vẫn để trong gói nylon kích thước khoảng (1,5 x1,5)cm cất trong ví da để sử dụng hoặc nếu ai hỏi mua thì bán lại kiếm lời.

Khoảng 20 giờ ngày 11/10/2017 trong lúc ngồi uống cà phê tại quán cà phê “Hoàng Linh” thuộc khu phố Xuân Đồng, phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài, Đ trích ra một ít ma túy đá trong gói nylon kích thước khoảng (1,5 x1,5)cm để sử dụng thì Q gọi điện thoại cho Đ hỏi mua 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) ma túy đá, Đ đồng ý bán và hẹn giao nhận ma túy và tiền tại quán cà phê “Hoàng Linh”.

Khoảng 10 phút sau Q điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh (không rõ biển số) đến thì Đ bán cho Q 01 bịch nylon kích thước (1,5 x 1,5)cm chứa ma túy đá bên trong với giá 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 13/10/2017 trong khi đang ở nhà, Đặng Đình Đ dùng số điện thoại 0942.400.322 nhắn tin cho N hỏi mua 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) ma túy đá thì N đồng ý. Khoảng 14 giờ cùng ngày N nhắn tin lại cho Đ nói là đợi một lúc sẽ có người mang ma túy đến giao cho Đ, khoảng 15 phút sau có 01 người thanh niên (chưa rõ lai lịch) gọi điện thoại cho Đ giới thiệu là người của N và kêu Đ đi ra hẻm bên hông cửa hàng điện máy xanh thuộc khu phố Phước Thọ, phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài để giao nhận tiền và ma túy. Tại đây Đ đưa cho người thanh niên số tiền 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng) thì người thanh niên đưa cho Đ 01 gói nylon được hàn kín hai đầu, kích thước khoảng (01 x 2,5)cm bên trong chứa ma túy đá, sau đó Đ mang về nhà cất trong ví da và mang theo bên người. Đến khoảng 07 giờ 30 phút ngày 14/10/2017 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Đ mang 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và gói ma túy đến phòng trọ số 02 do Lê Thành C thuê trọ thuộc nhà trọ không tên tại tổ 3, khu phố Suối Đá, phường Tân Xuân để sử dụng một mình. Khoảng 09 giờ cùng ngày Công an thị xã Đồng Xoài kiểm tra hành chính phát hiện trên người Đặng Đình Đ có 01 gói nylon kích thước khoảng (01 x 2,5)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng và tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang cùng tang vật thu giữ gồm: 01 gói nylon kích thước khoảng 01 x 2,5cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 kéo kim loại dài khoảng 10cm đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động hiệu  Nokia màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng, 01 (Một) ví da màu nâu.

Tại bản kết luận giám định số 497/2017/GĐ ngày 18/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 (Một) gói nylon (ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có trọng lượng: 0,1562 gam, là Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKS-ĐX ngày 25/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài đã truy tố bị cáo Đặng Đình Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài vẫn giữ nguyên quan điểm mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Đặng Đình Đ và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Đình Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điều 33; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Đ từ 07 đến 08 năm tù.

Bị cáo Đặng Đình Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đặng Đình Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 14/CT- VKS-ĐX ngày 25/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo. Xét lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với kết luận điều tra, kết luận giám định, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa thấy phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do muốn có tiền tiêu xài và có ma túy để sử dung, bị cáo Đặng Đình Đ đã nhiều lần mua ma túy của Huỳnh Nguyễn Hoàng N về để sử dụng và bán lại cho Trần Văn Q nhằm mục đích kiếm lời. Cụ thể là ngày 08/10/2017 tại con hẻm bên hông cửa hàng Điện Máy Xanh thuộc khu phố Phước Thọ, phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, bị cáo Đ đã bán 01 tép ma túy cho Trần Văn Q với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng); Ngày 11/10/2017 tại quán cà phê “Hoàng Linh” thuộc khu phố Xuân Đồng, phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài, bị cáo Đ tiếp tục bán cho Trần Văn Q 01 tép ma túy với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng). Hành vi của bị cáo Đặng Đình Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, Tội phạm và Hình phạt được quy định tại Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

 [3] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bản thân bị cáo là người đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, bị cáo biết được việc mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi vi phạm pháp luật khi bị phát hiện sẽ bị pháp luật nghiêm trị, bị cáo cũng nhận thức được rằng ma tuý là chất độc dược gaây nghieän neân Nhaø nöôùc ñoäc quyeàn quaûn lyù vaø cấm tàng trữ, vận chuyển, söû duïng, mua baùn trái phép song ñeå höôûng lôïi moät caùch baát chính mà bò caùo ñaõ baát chaáp phaùp luaät đi vào con đường phạm tội. Do bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho Trần Văn Q nên đây là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự - Phạm tội nhiều lần – quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài truy tố bị cáo Đặng Đình Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Hành vi mà bị cáo Đ gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng và sự phát triển lành mạnh của con người, hơn nữa bản thân bị cáo có 01 tiền sự, ngày 18/4/2017 bị cáo đã bị chủ tịch UBND phường Tân Thiện, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước ra Quyết định số 07/QĐ- UBND về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường với thời hạn áp dụng giáo dục là 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn thật nghiêm để sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống bị cáo biết tôn trọng pháp luật, tôn trọng sức khoẻ của người khác, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Bị cáo được xem xét các tình tiết giảm nhẹ như sau: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, tuy bị cáo thực hiện việc bán ma túy 02 lần nhưng số lượng không lớn, hưởng lợi không nhiều. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 nên cần được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáoĐặng Đình Đ về tội “Mua bán trái  phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài tại phiên tòa về tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự cũng như những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Đối với đối tượng tên Huỳnh Nguyễn Hoàng N là người đã bán ma túy cho bị cáo Đặng Đình Đ, hiện tại N không có mặt tại địa phương nên chưa làm rõ được vai trò có liên quan trong vụ án. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đồng Xoài đang tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xử lý trong vụ án này.

 [8] Đối với Trần Văn Q là người mua ma túy của Đặng Đình Đ với mục đích sử dụng cá nhân. Ngày 25/10/2017 UBND phường Tân Xuân, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã ra Quyết định số 46/QĐ-UBND áp dụng giáo dục tại xã, phường với thời hạn áp dụng là 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xử lý.

[9] Đối với đối tượng là người thanh niên khoảng 20 tuổi là người đã giao ma túy cho bị cáo Đặng Đình Đ hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đồng Xoài đang tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xử lý trong vụ án này.

[10] Đối với anh Nguyễn Thành C là người cho bị cáo Đặng Đình Đ mượn phòng trọ nhưng không biết được mục đích Đ mượn phòng trọ để sử dụng trái phép chất ma túy nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xử lý.

[11] Đối với chị Nguyễn Thị Hoàng L là chủ quán cà phê “Hoàng Linh” không biết được việc Đặng Đình Đ sử dụng trái phép chất ma túy và bán ma túy choTrần Văn Q tại quán cà  phê “Hoàng Linh” nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xử lý.

[12] Đối với chị Đỗ Thị Hồng H là chủ nhà trọ không tên thuộc khu phố Suối Đá, phường Tân Xuân, thị xã Đồng Xoài nơi phát hiện và bắt quả tang bị cáo Đặng Đình Đ sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 14/10/2017 nhưng chị H không biết bị cáo Đ mang ma túy vào nhà trọ của mình để sử dụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xử lý.

[13] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 (Một) bì thư còn lại sau giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước niêm phong số 497M ngày 18/10/2017 có trọng lượng: M = 0,1173 gam. Đây là vật chứng của vụ án nhưng không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (Một) dụng cụ sử dụng ma túy, 01 (Một) kéo kim loại dài 10cm đã qua sử dụng và 01 (Một) ví da màu nâu. Đây là những vật chứng của vụ án nhưng không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng. Đây là những phương tiện được bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[14] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đặng Đình Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 45 và Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009;

- Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Đặng Đình Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Đặng Đình Đ 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 14/10/2017.

3. Về vật chứng vụ án:

- Tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 (Một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng.

- Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì thư còn lại sau giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước niêm phong số 497M ngày 18/10/2017 có trọng lượng: M = 0,1173 gam; 01 (Một) dụng cụ sử dụng ma túy, 01 (Một) kéo kim loại dài 10cm đã qua sử dụng và 01 (Một) ví da màu nâu.

(Số vật chứng trên đã được chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đồng Xoài theo Quyết định chuyển vật chứng số 12/QĐ-VKS ngày 25/01/2018 của

Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài và Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/01/2018 giữa Công an thị xã Đồng Xoài với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đồng Xoài).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Bị cáo Đặng Đình Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo Đặng Đình Đ có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

378
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2018/HSST ngày 20/04/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;