Bản án 41/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 41/2021/HS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Minh T (tên thường gọi là Tý); Sinh ngày: 02/9/1990; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 459 đường NVL, Phường L, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên tiếp thị; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn L và bà: Ngô Thị Phương H; Có vợ: Là bà Nguyễn Thị Dung H và con: Có 01 người con, sinh ngày 27/01/2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 04/02/2021.

(bị cáo có mặt tại phiên tòa)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Đinh Tấn H (Qu); Sinh năm: 1973; Thường trú: 975/6 đường LG, Phường H, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2. Ông Trần Minh H; Sinh năm: 1993; Trú tại: 459 đường NVL, Phường L, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 04/02/2021, Công an Phường 8, Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Trần Minh T đang ở trong nhà không số (kế nhà số 165/7A/31) đường VT, Phường H, Quận F có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, đã thu giữ trong túi đeo màu đen của T 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (T khai là ma túy đá), nên đã giao T cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Minh T khai: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 04/02/2021, T gọi vào số điện thoại 0933233303 của Đinh Tấn H hỏi mua 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng để sử dụng. H đồng ý và kêu T đến nhà của H tại nhà không số (kế nhà số 165/7A/31) đường VT, Phường H, Quận F nhận ma túy. T điều khiển xe gắn máy biển số 59M1-134.94 đến nhà của H nhưng không gặp nên T gọi điện thoại cho H và H chỉ chỗ cho T lấy gói ma túy giấu dưới gầm giường. Sau khi lấy gói ma túy, T cất vào trong túi đeo chéo màu đen của T và định đi về thì bị Công an Phường 8, Quận 6 kiểm tra bắt giữ như nêu trên.

Đinh Tấn H khai không có mua bán ma túy. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho Trần Minh T đối chất với Đinh Tấn H, nhưng H cũng không nhận có bán ma túy cho T.

Tiến hành khám xét nơi ở của Đinh Tấn H tại nhà không số (kế nhà số 165/7A/31) đường VT, Phường H, Quận F, Công an không thu giữ được tài liệu, chứng cứ gì liên quan đến ma túy.

Theo Biên bản xét nghiệm chất ma túy ngày 04 tháng 02 năm 2021 của Trạm y tế Phường 8, Quận 6 thì Trần Minh T dương tính với Amphetamine.

Tại Kết luận giám định số: 1109/KLGĐ-H ngày 09 tháng 02 năm 2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Võ Thị Hoàng V (người chứng kiến), Trần Minh T và hình dấu Công an Phường 8, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1538g (không phẩy một năm ba tám gam), loại Methamphetamine.

Đối với Đinh Tấn H, Cơ quan điều tra không chứng minh được H có hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn hành vi sử dụng chất ma túy của H thì ngày 12/4/2021, Tòa án nhân dân Quận 6 đã quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở Cai nghiện bắt buộc 15 tháng tại Cơ sở cai nghiện ma túy Số 1 (Quyết định số: 82/QĐ-TA).

Tại Cáo trạng số: 38/CTr-VKS-Q6 ngày 06 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Minh T về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Minh T khai nhận chính bị cáo, đã thực hiện hành vi cất giữ 01 gói ma túy đá để sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang vào lúc 10 giờ ngày 04/02/2021 tại nhà không số (kế nhà số 165/7A/31) đường VT, Phường H, Quận F như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Minh T như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Trần Minh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động màu xanh, mặt sau có ghi chữ Samsung đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Trần Minh T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 372/21 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên, bên trong có tinh thể không màu có khối lượng 0,1108 gam;

01 túi đeo chéo màu đen có chữ Idigo; 01 sim điện thoại số thuê bao 0898430482.

Trả lại bị cáo Trần Minh T 01 chiếc điện thoại di động màu xám, mặt sau có ghi chữ Samsung (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0937921311) đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Trần Minh T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Trả lại ông Đinh Tấn H 01 chiếc điện thoại di động màu đen, mặt trước có ghi chữ Sony (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0933233303) đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Đinh Tấn H và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Còn các vật chứng khác, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Trần Minh T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Trần Minh T tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Minh T đã phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Trần Minh T đã cất giữ chất ma túy ở thể rắn và thời điểm bắt quả tang vào lúc 10 giờ ngày 04/02/2021 tại nhà không số (kế nhà số 165/7A/31) đường VT, Phường H, Quận F đã thu giữ trong túi đeo chéo màu đen (bị cáo đang đeo trên người) 01 gói nylon bên trong có 0,1538 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine (bị cáo khai số ma túy này là của bị cáo cất giữ để dành sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy khác). Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 truy tố bị cáo về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» thuộc trường hợp «Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam» theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

nh vi của bị cáo Trần Minh T không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Bị cáo Trần Minh T là người đã trưởng thành, bị cáo hoàn toàn nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trần Minh T là nghiêm trọng. Mặt khác, ma túy nói chung và các chất ma túy ở thể rắn như Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu (chưa có tiền án, tiền sự), nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì bị cáo Trần Minh T còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc xử lý vật chứng: Phương tiện mà bị cáo Trần Minh T dùng vào việc phạm tội là 01 chiếc điện thoại di động màu xanh, mặt sau có ghi chữ Samsung đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Trần Minh T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 372/21 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên, bên trong có tinh thể không màu có khối lượng 0,1108 gam (mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định); 01 túi đeo chéo màu đen có chữ Idigo; 01 sim điện thoại số thuê bao 0898430482 (trong chiếc điện thoại di động màu xanh, mặt sau có ghi chữ Samsung), là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động màu xám, mặt sau có ghi chữ Samsung (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0937921311) đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Trần Minh T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6 thu giữ của bị cáo Trần Minh T; 01 chiếc điện thoại di động màu đen, mặt trước có ghi chữ Sony (bên trong có 01 sim điện thoại số thuê bao 0933233303) đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Đinh Tấn H và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6 thu giữ của ông Đinh Tấn H. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo và ông H vì không đủ căn cứ xác định bị cáo và ông H đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 26/PNK ngày 12 tháng 4 năm 2021 và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12 tháng 5 năm 2021 của Công an Quận 6; Quyết định chuyển vật chứng số: 34/QĐ-VKS-Q6 ngày 06 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6) Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59M1-143.94, số máy P11-271558, số khung Y-271557 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Yamaha, số loại Nouvo, sơn màu Trắng Vàng, dung tích 132) thu giữ của bị cáo Trần Minh T, Cơ quan điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Trần Minh H (em của bị cáo), nên đã xử lý trả lại cho ông H (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 14/4/2021 - BL119), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[6] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát xác định không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đinh Tấn H về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Bị cáo Trần Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trần Minh T (Tý) phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Minh T (Tý) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động màu xanh, mặt sau có ghi chữ Samsung đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Trần Minh T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 372/21 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Huỳnh Thanh Thảo và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên, bên trong có tinh thể không màu có khối lượng 0,1108 (không phẩy một một không tám) gam; 01 (một) túi đeo chéo màu đen có chữ Idigo; 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0898430482.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Trần Minh T 01 (một) chiếc điện thoại di động màu xám, mặt sau có ghi chữ Samsung, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0937921311 đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Trần Minh T và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Trả lại ông Đinh Tấn H 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen, mặt trước có ghi chữ Sony, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0933233303 đã được niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Phạm Tiến Nguyên (cán bộ điều tra), Đinh Tấn H và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

- Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Minh T phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Trần Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2021/HS-ST ngày 28/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;