Bản án 41/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG - TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 41/2021/HS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 26 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:38/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo:

Phạm Kiên T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày:16/5/1981 tại thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: tổ B, phường H, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam;

Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12 phổ thông; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Phạm Văn K (đã chết); Con bà: Phan Thị R - sinh năm 1946 (trú tại: tổ B, phường H, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng); Anh, chị, em ruột: Gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con út; Vợ, con: Không.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 24/7/2019, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Nhân thân:

- Năm 2002, Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục 24 tháng.

- Năm 2005, Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng), tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Tháng 5/2009, Công an thị xã Cao Bằng (nay là Công an thành phố Cao Bằng), tỉnh Cao Bằng xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

- Tháng 9/2009, Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng.

- Năm 2012, Uỷ ban nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là Ủy ban nhân dân thành phố Cao Bằng), tỉnh Cao Bằng đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 12 tháng.

- Năm 2018, Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (hình thức phạt cảnh cáo).

Bị cáo bị bắt từ ngày 23/12/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 25 phút ngày 23/12/2020 tại khu vực tổ H, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Cao Bằng phát hiện, bắt quả tang Phạm Kiên T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 05 (năm) gói giấy bạc màu bạc bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột có khối lượng 0,27 (không phảy hai mươi bảy) gam, tất cả được gói trong tờ tiền 1000 (một nghìn) đồng thu giữ trong túi áo khoác bên phải của T.

Ngày 24/12/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng ra Quyết định trưng cầu giám định số 09 đối với vật chứng của vụ án. Tại Bản kết luận giám định số: 19/GĐMT ngày 04/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Heroine.

Quá trình điều tra đủ căn cứ xác định: Do bản thân sử dụng ma túy nên khoảng 16 giờ ngày 23/12/2020, Phạm Kiên T một mình đi bộ từ nhà tại tổ B, phường H, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đến khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng để tìm mua ma túy. Đến nơi T gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, tuổi, địa chỉ. T hỏi mua 300.000 (ba trăm nghìn) đồng Heroine. Người đàn ông nhận tiền và đưa lại cho T 05 (năm) gói giấy bạc màu bạc, tất cả được gói trong tờ tiền 1000 (một nghìn) đồng. T cầm số Heroine vừa mua được đi về khu vực cổng Bến xe khách cũ thành phố Cao Bằng. Khi vừa tới nơi thì bị công an kiểm tra và thu giữ số Heroine vừa mua được.

Hành vi của Phạm Kiên T đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại bản Cáo trạng số: 37/CT-VKSTP ngày 01/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Phạm Kiên T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Kiên T thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến và nhất trí đối với khối lượng ma túy bị thu giữ cũng như kết luận giám định số: 19/GĐMT ngày 04/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng. Bị cáo xác nhận ông Phạm Văn K và bà Phan Thị R là bố mẹ đẻ bị cáo. Ngoài số ma túy, bị cáo không bị thu giữ tài sản gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên bố bị cáo Phạm Kiên T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong tang vật cân vụ Phạm Kiên T.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định; vật chứng cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Hồi 16 giờ 25 phút ngày 23/12/2020, tại khu vực tổ H, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, Phạm Kiên T có hành vi tàng trữ trái phép 0,27 (không phảy hai mươi bảy) gam ma túy loại Heroine, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại nhiều mặt của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố Phạm Kiên T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a,..

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3]. Về nhân thân; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Phạm Kiên T là người nghiện ma túy và là người có nhân thân rất xấu. Bị cáo đã nhiều lần bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở chữa bệnh bắt buộc; bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và bị kết án về tội trộm cắp tài sản, tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã được nhắc nhở, cải tạo cũng như giáo dục nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội. Bị cáo có bố (ông Phạm Văn Kiềm) và mẹ (bà Phan Thị Róng) là người có công với cách mạng, được nhà nước tặng huân chương. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 24/7/2019, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 18/10/2020, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Tuy nhiên, đến ngày 23/12/2020 bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,27 (không phảy hai mươi bảy) gam nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4]. Về hình phạt chính: Căn cứ vào nhân thân của bị cáo; tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Phạm Kiên T là đối tượng không thể tự cải tạo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội. Mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo Phạm Kiên T từ 18 tháng đến 24 tháng tù là hoàn toàn phù hợp nên được chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiến đối với bị cáo.

[6]. Về những vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy thu giữ khi bị bắt quả tang, Phạm Kiên T khai được mua với một người đàn ông khoảng 30 tuổi ở khu vực cổng Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng nhưng không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Việc trao đổi mua bán ma túy không có ai biết và chứng kiến. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đang tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định pháp luật.

[7]. Về xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì niêm phong tang vật cân vụ Phạm Kiên T là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Kiên T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Phạm Kiên T 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành án phạt tù được tính kể từ ngày 23/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử:

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong tang vật cân vụ Phạm Kiên T, sinh năm 1981 (HKTT: tổ B, phường H, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng) có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 23/12/2020.

Xác nhận số vật chứng này hiện nay đang nằm tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/4/2021.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử buộc bị cáo Phạm Kiên T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 41/2021/HS-ST ngày 26/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:41/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;