TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 02/2020/HSST NGÀY 10/01/2020 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2019/HSST, ngày 24-12-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2019/QĐXXST-HS ngày 30-12-2019 đối với bị cáo:
Trần Thanh T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1991; tại ML, MT, Nam Định; nơi cư trú: Tổ E, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Trần Xuân Đ, sinh năm: 1960 và bà Hoàng Thị M sinh năm: 1962; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự: Không; tiền án:
- Ngày 23-10-2009 bị Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản;
- Ngày 21-10-2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản;
- Ngày 28-02-2017 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 02 (hai) năm tù về tội: Trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 07-9-2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 07-9-2019, Tổ công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Trần Thanh T; trú tại: Tổ 4, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:
- 01 (một) túi nilon màu hồng, bên trong có chứa một gói nilon màu trắng có chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (Trần Thanh T khai là Heroine), có khối lượng 6,48 gam, trích rút 1,00 gam ký hiệu T3 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy, còn lại 5,48 gam ký hiệu T4 nhập kho vật chứng. Và 196 ( Một trăm chín mươi sáu) viên nén hình trụ màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (Trần Thanh T khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 19,06 gam, trích rút 10 ( mười) viên có khối lượng 1,07 gam ký hiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy, còn loại 186 ( một trăm tám mươi sáu ) viên có khối lượng 17,99 gam ký hiệu T2 nhập kho vật chứng.
- 01 (một) chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA, loại xe AIRBLADE, mang BKS: 17B1-217.77, số khung: 713114, số máy: 5319017, xe đã qua sử dụng.
Bản Kết luận giám định số: 1480/KL, ngày 11-9-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,07 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T3 là chất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,00 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 19,06 gam loại Methamphetamine và 6,48 gam loại Heroine”. ( Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).
Tại cơ quan điều tra bị cáo Trần Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:
Khoảng 15 giờ, ngày 07-9-2019, Trần Thanh T; trú tại: Tổ E, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La một mình bắt xe búyt lên xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La chơi. Khi đến bản X, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Trần Thanh T gặp Lường Văn H; trú tại: Bản T, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ( là người quen của T). Gặp Lường Văn H, Trần Thanh T rủ Hải đi mua ma túy về sử dụng. H đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS: 17B1-217.77 chở T lên đến bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Hải dừng xe bảo T xuống xe đứng đợi, còn Hải một mình đi bộ vào trong bản để tìm mua ma túy. Hải đi được khoảng 05 phút thì quay lại đưa cho T 01 nilon màu hồng, bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng và 196 viên ma túy tổng hợp. T cầm gói ma túy Hải đưa ở tay trái rồi H điều khiển xe mô tô trở T về nhà. Khi cả hai đi đến khu vực bản T xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp tổ công tác Công an xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra Lường Văn H lợi dụng sơ hở đã bỏ chạy thoát, tổ công tác phát hiện và bắt quả tang Trần Thanh T có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng như đã nêu.
Bản cáo trạng số: 05/CT-VKS, ngày 24-12-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Trần Thanh T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm o, điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Thanh T về điểm, điều, khoản và tội danh trên.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Áp dụng điểm o, điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Thanh T mức án từ 9 ( chín) năm đến 10 (mười ) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-9-2019.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Trần Thanh T.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 186 viên nén hình trụ màu hồng có khối lượng 17,99 gam ký hiệu T2 và 5,48 gam Heroine ký hiệu T4 + 01 ( một) túi nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
Bị cáo Trần Thanh T phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.
Ý kiến của bị cáo Trần Thanh T: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về nhà với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.
[2].Về nội dung vụ án: Ngày 07-9-2019, Trần Thanh T; trú tại: Tổ E, phường QT, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 6,48 gam Heroine và 19,06 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 25,54 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.
Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Trần Thanh T tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo Trần Thanh T đã tái phạm chưa được xoá án tích nay lại phạm tội do lỗi cố ý “ Là tái phạm nguy hiểm”, được quy định điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Trần Thanh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm o, điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trần Thanh T tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm o, điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 05 năm đến 10 năm đối với bị cáo Trần Thanh T.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Trần Thanh T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.
Song nhân thân bị cáo Trần Thanh T là nhân thân xấu. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội rất nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.
Bị cáo Trần Thanh T đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Trần Thanh T còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với Lường Văn H; trú tại: Bản T, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La Trần Thanh T khai là người trực tiếp đi mua ma túy tại bản L, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đưa cho T cầm, mục đích để sử dụng vào ngày 07-9- 2019. Quá trình kiểm tra Lường Văn H đã bỏ chạy thoạt. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã tiền hành điều tra, xác minh hiện nay Lường Văn H không có mặt tại địa phương, gia đình và chính quyền địa phương không biết H đi đâu làm gì. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La chưa làm rõ được nguồn gốc số ma túy H mua. Khi nào triệu tập được H sẽ có điều tra làm rõ và có hình thức xử lý sau.
Đối với 01 (một) chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA, loại xe AIRBLADE, mang BKS: 17B1-217.77, số khung: 713114, số máy: 5319017, xe đã qua sử dụng. Thu giữ trong quá trình bắt Trần Thanh T. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe trên mang đăng ký tên Bùi Mạnh Q; sinh năm: 1981; trú tại: TH, Việt Thuận, Vũ Thư, Thái Bình. Tuy nhiên hiện nay Bùi Mạnh Q không có mặt tại địa phương, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã tiến hành thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng chưa xác định được. Do vậy Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tách ra để xử lý sau là có căn cứ.
[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 186 viên nén hình trụ màu hồng có khối lượng 17,99 gam ký hiệu T2 và 5,48 gam Heroine ký hiệu T4 là hàng Quốc cấm, Nhà nước cấm lưu hành và 01 ( một) túi nilon màu hồng + 01 mảnh nilon màu trắng + 01 ( một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu xét không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[4]. Về án phí: Bị cáo Trần Thanh T phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Thanh T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm o, điểm n khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 9 ( chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-9-2019 ( là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong có viền màu xanh đỏ, ngoài ghi:
“Vật chứng nhập kho vụ Trần Thanh T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 07-9-2019”. Trên mặt giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên các thành phần tham gia niêm phong, có hai dấu đỏ Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu.186 viên ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 17,99 gam cho vào một túi nilon màu trắng dán kín lại, ký hiệu T2; 5,48 gam chất bột màu trắng là chất ma túy, loại Heroine cho vào một túi nilon màu trắng dán kín lại, ký hiệu T4. Một túi nilon màu hồng + một mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.
4. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Thanh T phải chịu án phí Hình sự sơ là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Trần Thanh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./
Bản án 02/2020/HSST ngày 10/01/2020 về tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 02/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/01/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về