TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 40/2021/DS-PT NGÀY 27/01/2021 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 08/7/2020, ngày 23/9/2020, ngày 20/01/2021 và ngày 27/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 156/2020/TLPT-DS ngày 17 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ranh giới quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 90/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 541/2020/QĐ-PT ngày 29 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
1/Nguyên đơn: Ông Hồ Văn T, sinh năm 1948; (Có mặt)
Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp;
2/Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1955;
Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp;
Người đại diện theo ủy quyền của ông H: Ông Nguyễn Hoàng M, sinh năm 1968; Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (Có mặt);
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Lê Văn P - Công ty Luật TNHH hai thành viên C; Địa chỉ: 158, Cống Q, phường P, Quận 1, TP. H. (Vắng mặt ngày tuyên án).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Hồ Quí S, sinh năm 1986; (Có mặt)
3.2. Anh Quách Hữu C, sinh năm 1984; (Xin vắng mặt)
3.3. Bà Nguyễn Thị Bé T, sinh năm 1954; (Xin vắng mặt)
3.4. Ông Hồ Nhựt T, sinh năm 1978; (Xin vắng mặt)
3.5. Bà Hồ Thị Kim H, sinh năm 1972; (Xin vắng mặt)
3.6. Chị Hồ Quí Gi, sinh năm 1984; (Xin vắng mặt)
3.7. Chị Hồ Thị Tố L, sinh năm 1988; (Có mặt)
3.8. Chị Nguyễn Thị Trang N, sinh năm 1982; (Xin vắng mặt)
3.9. Anh Hồ Nhựt A, sinh năm 2002; (Xin vắng mặt)
3.10. Bà Đổ Thị P, sinh năm 1960; (Xin vắng mặt)
3.11. Chị Nguyễn Thị Hồng P, sinh năm 1984; (Xin vắng mặt)
3.12. Anh Nguyễn Minh N, sinh năm 1986; (Xin vắng mặt)
3.13. Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1988; (Xin vắng mặt)
3.14. Anh Nguyễn Đăng K, sinh năm 1995; (Xin vắng mặt)
3.15. Ông Nguyễn Hoàng M, sinh năm 1968; (Có mặt)
3.16. Bà Đinh Thanh T, sinh năm 1975; (Xin vắng mặt)
3.17. Anh Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1995; (Xin vắng mặt)
3.18. Nguyễn Ngọc N, sinh năm 2004; (Xin vắng mặt)
3.19. Ông Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1963; (Vắng mặt tuyên án)
3.20. Bà Lê Thị Bích T, sinh năm 1967; (Xin vắng mặt)
3.21. Anh Nguyễn Lê Trọng N, sinh năm 1991; (Xin vắng mặt)
3.22. Chị Nguyễn Lê Bích N, sinh năm 2001; (Xin vắng mặt)
3.23. Chị Trần Thị Cẩm T, sinh năm 1994; (Xin vắng mặt)
3.24. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1959; (Có mặt)
Cùng địa chỉ: Khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
3.25. Ủy ban nhân dân huyện T (Xin vắng mặt);
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị Q - Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T.
Địa chỉ: Khóm 3, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp
4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Thanh H là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Hồ Văn T trình bày: Nguồn gốc phần đất ông đang tranh chấp với ông Nguyễn Thanh H, là do cha mẹ ông để lại cho ông, ông đã được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005, thửa đất số 2227, tờ bản đồ số 02, đất ở đô thị, có chiều ngang là 20m, dài 78m (trong đó có điểm gấp khúc ngang 20m và dài 58m), tổng diện tích đất là 1.287,4m2; vị trí đất như sau: Phía đông giáp ông Nguyễn Thanh H, phía Tây giáp đất của ông, phía nam giáp đường Lê Hồng Phong, phía bắc giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai; Nhà nước đã thu hồi 26,3m2 (ngang 10,6m, dài 2,481m) để làm đường Lê Hồng Phong; đất tọa lạc tại khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Hiện nay, diện tích còn lại là 1.26l,1m2; với chiều ngang đường Nguyễn Thị Minh Khai là 20m, chiều ngang gấp khúc trụ đá số 2 là 20m; ngang đường Lê Hồng Phong 10,6m, dài 75,519m; trước đây khi Nhà nước đo đạc để thực hiện công tác bồi hoàn giải phóng mặt bằng đã đo đạc và xác định ranh giới đất bằng các trụ đá, đến nay vẫn còn trụ đá, mất một trụ phía đông giáp đất ông H phía đường Lê Hồng Phong. Vào năm 2017, ông H ngang nhiên làm hàng rào kiên cố lấn qua đất ông chiều ngang 01m, chiều dài chạy hết ranh đất, phía đông chiều dài là 75,59m; như vậy, ông H đã ngang nhiên chiếm đoạt của ông diện tích 75,59m2. Ngày 16/8/2017, ông đã gửi đơn khiếu nại để tranh chấp ranh đất với ông H đến Ban nhân dân khóm và Ủy ban nhân dân thị trấn Mỹ A giải quyết nhưng không thành.
Ông T yêu cầu giải quyết buộc ông H trả lại diện tích 75,519m2 (ngang 1m x dài 75,519m), đất có điểm gấp khúc; tại thửa đất 2227, tờ bản đồ số 02, loại đất ở đô thị; tọa lạc tại khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; theo ranh giới cột mốc trước đây chính quyền đã xác nhận (có điểm mốc là trụ đá cũ), theo hiện trạng ban đầu phù hợp với diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông đang đứng tên.
Tại phiên tòa, ông T thay đổi yêu cầu khởi kiện, ông yêu cầu Tòa án xác định ranh từ trụ đá hàng rào của bên đất ông H với trụ hàng rào nhà chị Quí S, rồi lấy điểm giữa kéo thẳng xuống sông, từ trụ đá ở điểm gấp khúc kéo qua đất ông 0,2m, kéo thẳng theo hướng đất của ông ra đường Lê Hồng Phong; nối các điểm ở giữa trụ hàng rào kéo đến sông, nối điểm giữa hàng rào đến trụ đá (trụ đá kéo qua đất ông T 0,2m) xác định một điểm rồi kéo thẳng đến đường Lê Hồng Phong (phía bên đất ông T) để xác định đường ranh. Ngoài ra, từ điểm giữa hàng rào kéo xuống sông thì có dính vào bụi tre, ông T tự nguyện đốn di dời (bụi tre là của ông T), còn cây bạch đằng ông T tự nguyện cho ông H đốn để sử dụng, ông không có tranh chấp.
- Bị đơn ông Nguyễn Thanh H trình bày: Nguồn gốc đất ông đang quản lý và sử dụng là do cha mẹ của ông để lại và được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông tại thửa 2993, tờ bản đồ số 02, với diện tích 1.914,2m2; đất tọa lạc tại khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp; phía đông giáp đất bà Phạm Thị X, phía Tây giáp đất ông Hồ Văn T, phía nam giáp đường Lê Hồng Phong, phía bắc giáp kênh Nguyễn Văn Tiếp.
Trước khi giải phóng cha ông là ông Nguyễn Văn P, có đào một cái đìa chiều ngang khoảng 6m, chiều dài 25m, giáp với phần đất của bà Nguyễn Thị B (mẹ của ông Hồ Văn T), để nuôi cá tra, đến khi Nhà nước quy hoạch có xáng thổi để xây dựng chợ và khu dân cư, thì đìa của ông H đã bồi lắng. Trong khoảng thời gian gia đình ông sử dụng đìa để nuôi cá thì những người hàng xóm đều biết; mặt khác về việc đặt cống thoát nước do em ông là ông Nguyễn Thanh H1, có thuê ông Nguyễn Hiếu T cùng đào lắp cống thoát nước (ống cống được làm bằng đất nung). Nay theo đơn khởi kiện của ông T, ông H không đồng ý.
Ngoài ra, ông H có yêu cầu phản tố yêu cầu ông T trả phần đất lấn chiếm của ông H diện tích 30m2 (ngang 1,5m x dài 20m), là một phần nhà của chị Quí S, tính từ kênh Nguyễn Văn Tiếp trở vào đường Lê Hồng Phong.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Nguyễn Thị N (là người đại diện theo ủy quyền của ông H), thừa nhận bụi tre dưới mé sông, là do bên phía ông T trồng và sử dụng, việc ông T xác định ranh, theo ông T trình bày tại phiên tòa, bà không đồng ý mà bà xác định ranh theo đơn phản tố của ông H, là ranh dính vào nhà của chị Quí S và yêu cầu đập một phần căn nhà trả lại đất theo đường ranh đã xác định; việc ông T trình bày sẽ di dời bụi tre dính vào ranh đất do ông T xác định và cho gia đình ông H đốn cây bạch đàn để sử dụng, bà không có ý kiến và tranh chấp gì, bà đồng ý; bà Nguyễn Thị N trình bày bụi tre là do bên gia đình ông T trồng và sử dụng từ trước đến nay.
- Chị Hồ Thị Tố L trình bày: Thống nhất theo đơn khởi kiện và yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T, chị không có ý kiến và không yêu cầu gì trong vụ án này.
- Chị Hồ Thị Quí S trình bày: Chị thống nhất theo đơn khởi kiện và yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T, chị không có ý kiến và không yêu cầu gì trong vụ án này. Ngoài ra, chị còn trình bày việc ông H có đơn phản tố yêu cầu xác định ranh dính vào một phần nhà chị, thì chị không đồng ý, vì nhà của chị là nhà tường kiên cố, khi chị xây dựng nhà bên phía ông H không có tranh chấp; nay bên H yêu cầu đường ranh dính vào nhà chị và yêu cầu chị đập nhà để trả hiện trạng, chị không đồng ý theo yêu cầu của ông Nguyễn Thanh H, chị thống nhất theo cách xác định ranh của cha chị là ông Hồ Văn T.
- Ông Nguyễn Hoàng M, ông Nguyễn Thanh H1, bà Lê Thị Bích T và anh Nguyễn Thanh P trình bày: Thống nhất theo đơn phản tố và yêu cầu của ông Nguyễn Thanh H, các ông, bà không có ý kiến và không yêu cầu gì trong vụ án này.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Quách Hữu C, Nguyễn Thị Bé T, Hồ Nhựt T, Hồ Thị Kim H, Hồ Quý G, Nguyễn Thị Trang N, Hồ Nhựt A, Đổ Thị P, Nguyễn Thị Hồng P, Nguyễn Minh N, Nguyễn Đăng K, Đinh Thanh T, Nguyên Hoàng K, Nguyên Ngọc N, Nguyễn Lê Trọng N, Nguyễn Lê Bích N, Trần Thị Cẩm T trình bày: Không có yêu cầu hay ý kiến gì trong vụ án này và có đơn xin được vắng mặt các phiên họp, hòa giải và xét xử của Tòa án nhân dân các cấp.
- Ủy ban nhân dân huyện Tháp M trình bày: Không có ý kiến và xin được vắng mặt các phiên họp, hòa giải và xét xử của Tòa án, sẽ thực hiện khi quyết định hoặc bản án có hiệu lực pháp luật.
Tại bản án sơ thẩm số 90/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định:
- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh H.
Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của hộ ông Hồ Văn T tại thửa 2227, tờ bản đồ số 2, (nay là thửa 3705); với đất của ông Nguyễn Thanh H tại thửa 2993, tờ bản đồ số 2, (nay là thửa 3512) là đoạn thẳng từ mốc MB’ - mốc M2’- mốc M11’ đến mốc MF’; đất tọa lạc tại khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Ranh đất được sử dụng theo chiều thẳng đứng tính từ lòng đất đến không gian tài sản của hai bên lấn chiếm ranh đất phải di dời theo quy định của pháp luật (Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, ngày 26/7/2018; Sơ đồ đo đạc ngày 17/4/2019 và Phụ lục mãnh trích đo ngày 25/11/2019 của Công ty TNHH dịch vụ và đo đạc B).
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Ông Nguyễn Thanh H không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm (người cao tuổi); hoàn trả lại cho ông Nguyễn Thanh H tiền tạm ứng án phí đã nộp là 375.500 đồng, theo biên lai thu số 0000008, ngày 16/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.
+ Ông Hồ Văn T không phải chịu tiền án dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho ông Hồ Văn T số tiền 850.000 đồng là tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0005313, ngày 11/5/2018, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Thanh H phải chịu 4.510.000 đồng; nhưng do ông Hồ Văn T đã nộp tạm ứng trước và đã thanh lý xong, nên ông H phải nộp số tiền 4.510.000 đồng để trả lại cho ông T.
- Về chi phí định giá tài sản: Ông Nguyễn Thanh H phải chịu 1.000.000 đồng, tiền chi phí định giá, ông H đã tạm ứng và đã chi xong.
Ngày 13/12/2019, ông Nguyễn Thanh H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu hủy bản án sơ thẩm do đã bỏ sót chứng cứ, không lập biên bản thẩm định tại chỗ, không trích lục đất của hai bên là vi phạm tố tụng.
- Tại phiên tòa phúc thẩm.
+ Nguyên đơn ông Hồ Văn T trình bày: Đất của hộ ông T được cấp diện tích 1284,7m2, ngang giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai là 20m, ngang giáp đường Lê Hồng Phong là 10,6m. Ông đồng ý xác định ranh đất giữa hai bên như sau: Vị trí giáp kênh Nguyễn Văn Tiếp là mốc MB’, giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai mốc M2’ là điểm giữa hai trụ hàng rào của ông H và chị S (con ông T). Vị trí gần giữa đất đoạn gấp khúc là từ trụ đá giáp đất ông H đo về hướng đất ông T 0,2m xác định mốc M11’. Vị trí giáp đường Lê Hồng Phong ông T thừa nhận chiều ngang là 10,6m, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chiều ngang hơn 11m là không phù hợp. Ông T đồng ý xác định ranh đất giữa đất ông Nh và đất ông T đo về hướng đất ông H 10,6m xác định mốc B nối các mốc này là ranh đất giữa hai bên.
+ Bị đơn ông Nguyễn Thanh H, ủy quyền cho ông Nguyễn Hoàng M trình bày: Ông H yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất ông H và đất của ông T vị trí giáp kênh Nguyễn Văn Tiếp và đường Nguyễn Thị Minh Khai là mốc MB’ và M2’, vị trí đoạn gấp khúc là từ mí nhà của chị S đo về hướng đất của ông H 0,2m xác định một mốc mới. Vị trí giáp đường Lê Hồng Phong là cọc sắt do đoàn đo đạc bồi thường cắm mốc. Nối các mốc này lại là ranh đất giữa hai bên. Tuy nhiên, ông H yêu cầu hủy bản án sơ thẩm, lý do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ không đầy đủ, từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đất đai, xem xét thẩm định không toàn diện, không khách quan.
- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thu thập chứng cứ không đầy đủ, mặc dù cấp phúc thẩm đã ngừng phiên tòa để thu thập bổ sung. Tuy nhiên, để có căn cứ đánh giá các chứng cứ và thu thập các chứng cứ về việc quản lý đất của chính quyền địa phương, nhằm xác định rõ diện tích đất thuộc quyền sử dụng đất giữa hai bên đương sự. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án huyện T giải quyết lại sau khi đã thu thập chứng cứ đầy đủ và toàn diện.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Tỉnh phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm.
Về nội dung: Ông T và ông H đều thống nhất ranh tại kênh Nguyễn Văn Tiếp và đường Nguyễn Thị Minh Khai là mốc MB’ và M2’ là phù hợp thực tế sử dụng đất giữa hai bên nên công nhận. Xét yêu cầu của ông H yêu cầu xác định ranh tại đoạn gấp khúc là từ mí nhà chị S đo sang hướng đất của ông H 0,2m xác định một mốc mới và vị trí giáp đường Lê Hồng Phong mốc ranh là cọc sắt do đoàn đo đạc bồi thường cắm là có một phần căn cứ để chấp nhận. Vì căn cứ vào quá trình sử dụng đất của cha mẹ giữa hai bên đã được sử dụng từ lâu, sau đó hai bên đương sự tiếp tục sử dụng, thì chị S được ông T cho đất cất nhà ở, ông H không tranh chấp, nếu xác định ranh theo yêu cầu của ông H sẽ trúng vào một phần nhà của ông T đã được xây dựng từ lâu. Giữa hai bên đã có trụ đá ranh, nên ông T đồng ý từ trụ đá ranh đo về hướng đất ông T 0,2m (mốc M11’) là ranh đất giữa hai bên là có căn cứ.
Vị trí ranh tại đường Lê Hồng Phong, theo ông T thừa nhận chiều ngang đất của ông T là 10,6m, từ ranh giữa đất ông Nh với đất của ông Tr đo về hướng đất ông H 10,6m (mốc B) là đúng vị trí đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T được cấp, chiều ngang 10,6m. Ông đồng ý với thực tế sử dụng đất giữa hai bên. Nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông H sửa một phần bản án sơ thẩm. Xác định ranh giữa đất của hộ ông T với đất của ông H là các mốc MB’, M2’, M11’, B.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản. Do ông T được chấp nhận một phần yêu cầu và ông H được chấp nhận một phần yêu cầu nên mỗi bên phải chịu phân nửa chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là anh C, bà Bé T; anh T; chị H; chị Quí G; chị N; anh Nhựt A; bà P; chị P; anh N; anh P; anh K; chị T; anh K; cháu N; bà Bích T; anh N; chị N; chị cấm T và UBND huyện T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự trên.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Nguyễn Thanh H, đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Hoàng M yêu cầu hủy bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử xét thấy: Phần đất của ông T có nguồn gốc là của cha, mẹ ông T là cụ Hồ Văn T và cụ Nguyễn Thị B sử dụng trước giải phóng (1975); sau đó cụ T chết thì phần đất này em của ông T là ông Hồ Thanh Nh được cấp quyền sử dụng đất ngày 12/5/1995. Ngày 05/01/2005 ông Nh làm hợp đồng chuyển nhượng cho ông T một phần đất của cụ T và cụ B để lại cho ông T, ngày 14/3/2005 ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Tuy năm 2005 ông T được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng phần đất tại thửa 2227 ông T đã sử dụng từ trước đến nay đã cất nhà ở và trồng cây, trên phần đất tiếp giáp với đất cụ Nguyễn Văn P (cha ông H) thì ông T có trồng bụi tre để làm ranh, có ống bộng để dẫn nước từ kênh Nguyễn Văn Tiếp A vào ruộng của ông T và ông H. Còn bên phía đất của ông H thì cụ Nguyễn Văn P và cụ Lê Thị H cũng sử dụng đất trước giải phóng đến ngày 12/5/1995, ông Nguyễn Thanh H đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 657, trên phần đất ông H có xây nhà để ở; tức khi cha và mẹ của ông T và ông H sử dụng đến khi ông H và ông T sử dụng đất thì các bên đã sử dụng ổn định, không có phát sinh tranh chấp về ranh giới;
[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của hộ ông T với đất của ông H tại vị trí giáp kênh Nguyễn Văn Tiếp là mốc MB’, giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai là mốc M2’ (điểm giữa hai trụ hàng rào của chị S và ông H). Việc xác định mốc giới này phù hợp với thực tế quyền sử dụng đất giữa hai bên, nên công nhận mốc giới hai bên đương sự đã xác định.
[2.2] Đối với vị trí ranh giới đất giữa hai bên không thống nhất là đoạn gấp khúc (trụ đá) và đường Lê Hồng Phong. Tại đoạn gấp khúc ông T yêu cầu từ trụ đá đo về hướng đất ông T là 0,2m. Xác định mốc M11’ giáp đường Lê Hồng Phong là mốc B chiều ngang 10,6m, còn ông H yêu cầu đoạn gấp khúc từ mí nhà chị S đo về hướng đất ông H 0,2m xác định mốc mới giáp đường Lê Hồng Phong là trụ sắt (do đoàn đo đạc bồi thường cắm).
Xét thấy, tại đoạn gấp khúc có trụ đá nhưng ông H không thừa nhận trụ đá này. Ông T cũng không có chứng cứ chứng minh là trụ đá ranh. Đối với ông H thì xác định ranh từ mí nhà chị S đo về hướng đất ông H 0,2m cũng không có căn cứ để chấp nhận. Bỏi vì, trên thực tế đất hai bên đương sự sử dụng đã tồn tại từ thời cha, mẹ của nguyên đơn và bị đơn, không xác định cụ thể rõ ràng mốc giới, giữa hai bên. Khi ông T cho con là chị S xây nhà, phía ông H không tranh chấp. Nếu xác định theo ông H thì sẽ lấn vào một phần căn nhà của ông T đã xây dựng từ trước. Vì vậy, căn cứ vào thực tế sử dụng đất của hai bên đương sự. Mốc ranh tại vị trí gấp khúc được xác định từ trụ đá đo về hướng đất của ông T 0,5m xác định mốc A là ranh giới quyền sử dụng đất giữa hai bên.
[2.3] Tại vị trí đường Lê Hồng Phong, ông H xác định cọc sắt là mốc ranh là không có cơ sở. Bởi vì, căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nh và ông T xác định chiều ngang đất của ông T giáp đường Lê Hồng Phong là 10,6m. Nên ông H yêu cầu mốc ranh là trụ sắt thì chiều ngang đất của ông T chỉ còn 8,01m, nếu kéo thẳng đến vị trí điểm ranh ở đoạn giữa sẽ trúng vào phần bờ đất và cây trồng của ông T. Vì vậy, căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T và thực tế sử dụng đất của hai bên đương sự.
Ranh giới giữa đất của hộ ông T và hộ ông H được xác định là từ ranh giữa đất ông Nh và ông T đo về hướng đất ông H là 10,6m xác định mốc B. Nối các mốc MB’-M2’-A-B là ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của hộ ông T và đất của hộ ông H. Xét lời trình bày của bị đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn yêu cầu hủy bản án sơ thẩm giao về cho Tòa án huyện T giải quyết lại là không có căn cứ.
[3] Từ các căn cứ như đã phân tích, Hội đồng xét xử xét thấy, do cấp phúc thẩm đã thu thập đầy đủ chứng cứ để giải quyết vụ án nên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T, không chấp nhận kháng cáo của ông H yêu cầu hủy bản án sơ thẩm. Ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất ông Hồ Văn T (thuộc thửa 2227, tờ bản đồ số 2) nay là thửa 3705 với đất của ông H (thuộc thửa 2993, tờ bản đồ số 2), nay là thửa 3512, đất tại khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp được xác định nối từ mốc MB’-M2’-A-B theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, ngày 19/8/2020 của Tòa án và Sơ đồ đo đạc ngày 07/9/2020 của Công ty TNHH dịch vụ và đo đạc B.
Xét bản án sơ thẩm của Tòa án huyện T xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có căn cứ, nên sửa một phần bản án sơ thẩm.
[4] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông H, sửa một phần bản án sơ thẩm về việc xác định lại ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất ông T và ông H, không chấp nhận một phần kháng cáo của ông H về việc yêu cầu hủy bản án sơ thẩm, xét đề nghị của Viện kiểm sát là có một phần căn cứ nên chấp nhận.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh về chi phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản. Do ông T được chấp nhận một phần yêu cầu và ông H được chấp nhận một phần yêu cầu nên mỗi bên phải chịu phân nửa chi phí xem xét thẩm định tại chổ và định giá tài sản là có căn cứ nên chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị sửa nên ông H không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự.
[6] Các phần khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 175 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 170 Luật đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh H về việc yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.
2. Sửa một phần bản án sơ thẩm số 90/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T.
4. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T.
5. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh H.
6. Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa đất của hộ ông Hồ Văn T tại thửa 2227, tờ bản đồ số 2, (nay là thửa 3705); với đất của ông Nguyễn Thanh H tại thửa 2993, tờ bản đồ số 2, (nay là thửa 3512) là đoạn thẳng nối mốc MB’ - mốc M2’- mốc A- mốc B; đất tọa lạc tại khóm 2, thị trấn Mỹ A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
Ranh đất được sử dụng theo chiều thẳng đứng tính từ lòng đất đến không gian, tài sản của hai bên lấn chiếm ranh đất phải di dời theo quy định của pháp luật (Kèm theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, ngày 19/8/2020; Sơ đồ đo đạc ngày 07/9/2020 của Công ty TNHH dịch vụ và đo đạc B).
7. Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Ông Nguyễn Thanh H không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm (người cao tuổi); hoàn lại cho ông Nguyễn Thanh H tiền tạm ứng án phí đã nộp là 375.500 đồng, theo biên lai thu số 0000008, ngày 16/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.
+ Ông Hồ Văn T không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả lại cho ông Hồ Văn T số tiền 850.000 đồng là tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0005313, ngày 11/5/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.
8. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá.
- Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Ông Nguyễn Thanh H phải chịu 2.255.000 đồng; ông Hồ Văn T phải chịu 2.255.000 đồng nhưng do ông Hồ Văn T đã nộp tạm ứng trước và đã thanh lý xong, nên ông H phải nộp số tiền 2.255.000 đồng để trả lại cho ông T.
- Về chi phí định giá tài sản: Ông Nguyễn Thanh H phải chịu 500.000 đồng, ông Hồ Văn T phải chịu 500.000 đồng tiền chi phí định giá, nhưng do ông H đã tạm ứng và đã chi xong nên ông T phải nộp số tiền 500.000 đồng để trả lại cho ông H.
9. Án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh H không phải chịu tiền án phí phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 40/2021/DS-PT ngày 27/01/2021 về tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 40/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về