Bản án 40/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 40/2020/HS-ST NGÀY 22/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L X xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 04 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/HSST-QĐ ngày 06 tháng 05 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Văn Trọng Kh (Lương E), sinh năm 1993, tại thành phố L X, tỉnh An Giang; nơi cư trú: số 214/5B, khóm Ph Q, phường M L, thành phố L X, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1965 (đã chết) và bà Hà Thị Ngọc H, sinh năm 1970; bị cáo chưa có vợ con; nhân thân: từ nhỏ đến lớn sống chung với cha mẹ, đi học hết lớp 11 thì nghỉ; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13 tháng 12 năm 2019 đến nay, có mặt.

- Bị hại:

+ Ông Đoàn Hữu Ph, sinh năm 2001; địa chỉ: Hẻm 8, khóm Đ A4, phường M X, thành phố L X, tỉnh An Giang, có mặt.

+ Ông Mai Hồng T, sinh năm 1998; địa chỉ: số 1105D/56, đường V V H, khóm B K5, phường B K, thành phố L X, tỉnh An Giang, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Trương Hoàng Ph, sinh năm 1999, có mặt;

+ Ông Nguyễn Thành N, sinh năm 1997, có mặt;

+ Ông Nguyễn Bảo L, sinh năm 1987, vắng mặt;

+ Ông Phạm Đức T, sinh năm 1990, vắng mặt;

+ Ông Phan Thái A, sinh năm 1998, vắng mặt;

+ Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1992, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 29 tháng 6 năm 2019, Nguyễn Thành N điều khiển xe mô tô biển số 67K1-0043 chở Nguyễn Văn Trọng Kh, Trương Hoàng Ph đến hát karaoke tại quán T3 ở khóm Đông An 4, phường Mỹ Xuyên, thành phố L X. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày thì cả nhóm ra về, N đi xuống trước lấy xe. Lúc này, Phạm Đức T, Mai Hồng T, Đoàn Hữu Ph, Nguyễn Văn Q, Phan Thái A, Nguyễn Bảo L cũng lấy xe ra về. Khi N điều khiển xe đến trước cửa quán thì va chạm với xe của T nên xảy ra cự cải. Kh và Hoàng Ph đến bênh vực T thì bị Mai Hồng T dùng nón bảo hiểm đánh vào vùng đầu của Hoàng Ph. Kh xông đến định đánh T thì bị Hữu Ph dùng tay đánh vào vùng đầu làm Kh té ngã xuống vỉa hè và rớt con dao xếp trong túi quần bên phải của Kh ra ngoài. Kh nhặt con dao đâm nhiều cái vào người của Hữu Ph và T rồi cùng Hoàng Ph lên xe cho N chở đi. Hữu Ph và T được T, Q, L, An đưa đến Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang cấp cứu và điều trị đến ngày 08 tháng 7 năm 2019 ra viện.

Ngày 01 tháng 7 năm 2019, Đoàn Hữu Ph có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Ngày 01 tháng 7 năm 2019, Nguyễn Văn Trọng Kh đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L X đầu thú.

* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 174/19/TgT ngày 04 tháng 7 năm 2019 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với Đoàn Hữu Ph, sinh năm 2001, ghi nhận:

Dấu hiệu chính qua giám định, - Vết thương thái dương - chẫm trái kích thước 02cm, sắc gọn;

- 02 vết thương cằm trái kích thước 01cm, 0.8cm, sắc gọn;

- Vết thương ngực phải kích thước 03cm, bờ sắc gọn;

- 02 vết thương lưng phải kích thước 1.5cm, 04cm, sắc gọn;

- 02 vết thương giữa lưng kích thước 2.5cm, 3.5cm, sắc gọn Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 08%, thương tích do vật sắc gây nên.

* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 175/19/TgT ngày 04 tháng 7 năm 2019 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với Mai Hồng T, sinh năm 1998, ghi nhận:

Dấu hiệu chính qua giám định, - 02 vết thương lưng phải kích thước 02cm, 5,5cm, sắc gọn, thấu ngực, tràn máu màng phổi phải, đã phẫu thuật dẫn lưu;

- Vết thương mặt sau ngoài khuỷu phải kích 02cm, sắc gọn;

- Vết thương mặt sau 1/3 giữa cánh tay trái kích thước 2.5cm.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%, thương tích do vật sắc nhọn gây nên.

Ngày 03 tháng 7 năm 2019, bà Hà Thị Ngọc H (mẹ của Kh ) bồi thường cho T 20.000.000 đồng, do Kh tác động bồi thường.

Tại Cáo trạng số 36/CT-VKS ngày 25 tháng 03 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L X đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Trọng Kh về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa:

Bị hại Ph yêu cầu bồi thường chi phí điều trị là 1.664.000 đồng và bị hại T yêu cầu bồi thường 28.650.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù và áp dụng Điều 590 Bộ luật dân sự buộc bị cáo bồi thường T bộ thiệt hại theo yêu cầu của người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L X, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Trong lúc lấy xe ở quán hát Karaoke A ra về, thì xe của N (Trong nhóm của Kh ) va chạm với xe của T (Nhóm của T) nên xảy ra cự cải. Sau khi bị T và Ph tấn công, Kh bị té ngã xuống vỉa hè và rớt con dao xếp trong túi quần bên phải của Kh ra ngoài. Kh nhặt con dao đâm nhiều cái vào người của Hữu Ph và T rồi cùng Hoàng Ph lên xe cho N chở đi.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với thương tích trên người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án. Do đó, có cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Văn Trọng Kh đã sử dụng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích Mai Hồng T với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 13%, gây thương tích Đoàn Hữu Ph với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 08%.

Thấy rằng, trước khi sự việc xảy ra, qua lời khai của bị cáo, bị hại T và Ph thì cách thức bị cáo thực hiện hành vi, công cụ mà bị cáo gây thương tích cho bị hại phù hợp với các vết thương trên người bị hại. Bị cáo không có ý định nhắm vào vị trí nào trên cơ thể của bị hại và không có ý định giết người. Vì vậy, không có cơ sở xác định bị cáo muốn tước đoạt tính mạng sống của bị hại.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi gây thương tích cho người khác là xâm phạm quyền bất khả xâm phạm sức khỏe của người khác nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện thông qua cách thức bị cáo thực hiện hành vi. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L X truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn T đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi của bị cáo:

Sức khỏe là vốn Q của mỗi cá nhân và là nền tảng để mỗi người lao động, phát triển. Chính vì vậy, quyền được an T về sức khỏe của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đối với những người xâm phạm đến sức khỏe người khác một cách trái pháp luật, đáp ứng quy định của pháp luật hình sự sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội; đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ; ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại và bị hại cũng có một phần lỗi. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Văn Trọng Kh không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình điều tra bị hại T đã nhận được 20.000.000 đồng do mẹ Kh bồi thường và yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 28.650.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt cho Kh .

Bị hại Ph yêu cầu Kh bồi thường 1.664.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường T bộ thiệt hại cho bị hai, xét chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 con dao xếp dài khoảng 15cm, Cơ quan điều tra không thu hồi được nên không đề cập giải quyết.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Trọng Kh phạm tội “Cố ý gây thương tích;

Xử phạt: Nguyễn Văn Trọng Kh 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù;

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày 13 tháng 12 năm 2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Trọng Kh bồi thường thêm cho ông Mai Hồng T số tiền 28.650.000 (Hai mươi tám triệu sáu trăm năm mươi nghìn) và bồi thường cho ông Đoàn Hữu Ph 1.664.000 (Một triệu sáu trăm sáu mươi bốn nghìn) đồng.

3. Về xử lý vật chứng: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 các điểm a, c, g khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn Trọng Kh phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.515.000 (Một triệu năm trăm mười lăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Kh và bị hại T, Ph có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử Ph thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 40/2020/HS-ST ngày 22/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:40/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;