Bản án 40/2019/HSST ngày 19/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 40/2019/HSST NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2019/HSST ngày 26 tháng 3 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Quàng Văn S; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 11/11/1997 tại: xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N C, xã C L, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Quàng Văn D, sinh năm: 1972 và bà Lò Thị T, sinh năm: 1974; bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Tại bản án số: 143/2017/HSST ngày 17/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đã xử phạt bị cáo Quàng Văn S 14 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền sự: Ngày 08/12/2018, Quàng Văn S bị Chủ tịch UBND xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính – Cai nghiện cắt cơn 10 ngày tại Trung tâm điều trị nghiện ma túy huyện Thuận Châu.

Trong vụ án này bị cáo bị bắt giữ từ ngày 19/12/2018 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Cầm Văn T, sinh năm: 1994, nơi cư trú: Bản N C, xã C L, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ( Có mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 13/10/2018, trong khi Lường Văn Th, sinh năm: 1993 điều khiển xe máy chở theo Cầm Văn T, sinh năm 1994 (Cùng cư trú tại bản N Ci – C L ) đi trên Quốc lộ 6 ( Hướng Điện Biên – Hà Nội ), thì nhìn thấy Quàng Văn S ( Người cùng bản ) đang đứng một mình tại ngã ba bản Pán, xã Chiềng Ly. T liền bảo Th dừng xe để hỏi S về việc S có tự ý chuộc điện thoại của T ở hiệu cầm đồ hay không ? Tuy nhiên S không thừa nhận và hai bên xảy ra cãi vã. T đã dùng chân phải đạp vào lưng S, dùng tay phải đấm 02 cái vào má trái của S sau đó thì bỏ đi cùng với Th. Về phía S do bị T đánh vô cớ nên đã đi vào khu vực kê bàn bán thịt ( Của người dân để qua đêm ) tại ngã ba bản Pán tìm lấy 01 con dao sau đó dấu vào ống tay áo khoác bên trái đang mặc rồi đi bộ theo Quốc lộ 6, hướng Điện Biên để tìm T. Khi S đến đoạn đường thuộc khu vực bản Pán 2, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu thì nhìn thấy T, Th và Bạc Cầm C ( Sinh năm: 1998, nhà ở bản Phiêng xạ, xã Chiềng Ly đang đứng bên đường đoạn trước cửa nhà ông Lường Văn K, thì S đã tiến đến nói chuyện với T về việc bị T đánh vô cớ, tuy nhiên S lại bị T dùng tay túm lấy cổ áo S rồi xô đẩy về phía sau. Do không thể kìm chế được bản thân nên S đã dùng tay phải rút con dao từ ống tay áo khoác bên trái ra vung lên chém vào gò má bên trái của T 01 nhát, sau khi bị chém thì T đã bỏ chạy sau đó dừng lại nhặt lấy 01 thanh củi bên đường nhằm quay lại đánh S, tuy nhiên nhưng do vết thương trên má trái chảy máu nhiều nên T đã buông thanh củi ra và ngã xuống đường. Lúc này ông K ở trong nhà đi ra giật lấy con dao từ tay S và cùng với mọi người xung quanh đưa T đi sơ cứu và điều trị vết thương tại Bệnh viện đa khoa huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Sau khi sự việc xảy ra, cơ quan Điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có mặt; ghi lời khai nhân chứng và tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng liên quan đến vụ án gồm:

- 01 con dao dài 34 cm, cán bằng gỗ dài 14,5 cm, đường kính cán dao 3,5 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 19,5 cm, mũi dao tù, chỗ rộng nhất của lưỡi dao là 4,8 cm, chỗ hẹp nhất 3,6 cm, sống dao dày 0,4 cm, nới tiếp giáp cán dao và lưỡi dao được quấn bằng một dây cao su màu đen bản rộng 0,4 cm.

- 01 thanh gỗ màu nâu đã khô, dài 87 cm, dạng 03 cạnh, bề mặt nham nhở, chỗ rộng nhất 6,5 cm, chỗ hẹp nhất 3,4 cm;

- 01 đôi chiếc dép nhựa màu đỏ sẫm dạng dép quai, kích thước dài 26,5 cm, cỡ dép 41.

Tại bản tóm tắt hồ sơ bệnh án của Bệnh viện đa khoa huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đối với Cầm Văn T có nội dung: Vết thương phần mềm má trái, chấn thương gối trái do bị đánh.

Tại bản Kết luận giám định thương tích số: 208/TgT ngày 14/11/2018 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Sơn La kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định đối với Cầm Văn T là 11% ( Mười một phần trăm ). Cơ chế hình thành vết thương: Thương tích gò má trái do tác động trực tiếp với vật sắc nhọn gây ra. Thương tích dát thâm má trái do tác động tương hỗ với vật tày gây ra.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Quàng Văn S đã khai nhận về hành dùng dao chém vào má trái bị hại Cầm Văn T như đã nêu ở trên.

Quá trình điều tra bị hại Cầm Văn T cũng thừa nhận vào đêm 13/10/2018 đã xảy ra xô xát với bị can Quàng Văn S tại ngã ba bản Pán, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu, sau đó S tìm gặp lại bị hại tại khu vực trước cửa nhà ông Lường Văn K ( Thuộc bản Pán 2, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu ) và T đã có hành vi dùng tay túm cổ áo và đẩy vào ngực Quàng Văn S, sau đó bị S dùng dao chém vào gò má bên trái gây thương tích 11% sức khỏe như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 41/CT-VKS ngày 26/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Quàng Văn S về tội: Cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Quàng Văn S, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 134 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn S phạm tội: Cố ý gây thương tích và xử phạt bị cáo mức án từ 30 đến 36 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận việc gia đình bị cáo và bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường xong vào ngày 28/3/2019, với số tiền đã bồi thường là 4.000.000đ ( Bốn triệu đồng ). Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu gì thêm, do vậy không đặt ra vấn đề giải quyết.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số chứng gồm: 01 con dao bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và 01 thanh gỗ bị hại sử dụng nhằm đánh lại bị cáo.

- Chấp nhận việc xử lý vật chứng của cơ quan Điều tra đã trả lại vật chứng là 01 đối dép cho bị hại do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo S có ý kiến: Thừa nhận đêm 13/10/2018 tại ngã ba bản Pán, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu, do bị bị hại đánh vô cớ nên đã chuẩn bị 01 con dao tìm gặp lại bị hại tại khu vực trước cửa nhà ông Lường Văn K ( Bản Pán 2, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu ) để nói chuyện, tuy nhiên lại bị T dùng tay túm cổ áo và đẩy vào ngực nên đã không làm chủ được bản thân mà dùng dao chém vào gò má bên trái, gây thương tích cho bị hại 11% sức khỏe. Nay bị cáo đã rất hối hận mong được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị hại Cầm Văn T có ý kiến: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo có một phần lỗi của bị hại. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự đã được gia đình bị cáo bồi thường xong vào ngày 28/3/2019, tổng số tiền là 4.000.000đ. Nay không yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Vào đêm 13/10/2018 tại khu vực ven đường Quốc lộ 6 thuộc địa phận bản Pán Pán 2, xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Quàng Văn S ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã có hành vi dùng hung khí nguy hiểm ( Dao ) chém vào gò má trái anh Cầm Văn T gây ra thương tích 11% sức khỏe cho bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ nhận thức để biết được mọi hành vi  xâm hại đến sức khỏe của người khác đều trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng ( Con dao), kết luận giám định về thương tích cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Cầm Văn Tuấn đã phạm vào tội: Cố ý gây thương tích, với tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng truy tố và Luận tội của Viện kiểm sát nhân nhân huyện Thuận Châu là có cơ sở và đúng pháp luật.

Tại Điều 104 BLHS quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ a đến k khoản 1 Điều này. ” .

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý và bằng hung khí nguy hiểm, xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của người bị hại. Mặc dù căn nguyên dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo được xác định có một phần lỗi của bị hại ( Bị hại có hành động dùng vũ lực trước với bị cáo ). Tuy nhiên nếu bị cáo là người biết kìm nén, bỏ qua hành động dùng tay túm cổ áo và du đẩy của bị hại mà chọn cách xử sự khác thay bằng dùng dao chém vào mặt bị hại thì hậu quả thương tích đã không xảy ra đối với bị hại. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện tính xem thường pháp luật, xem nhẹ sức khỏe của người khác, gây mất trật tự về an ninh xã hội ở địa phương. Do đó cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.  Bản án xét xử bị cáo còn là bài học chung cho trong toàn xã hội về ý thức tôn trọng danh dự, nhân phẩm và sức khỏe con người thuộc khách thể được pháp luật bảo vệ.

[4] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã từng bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy ( Bản án số: 143/2017/HSST ngày 17/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ) chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do cố ý, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết nhân thân: Ngày 08/12/2018, bị cáo Quàng Văn S bị Chủ tịch UBND xã Chiềng Ly, huyện Thuận Châu, Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính – Cai nghiện cắt cơn 10 ngày tại Trung tâm điều trị nghiện ma túy huyện Thuận Châu. Do vậy bị cáo thuộc trường hợp có nhân thân xấu và là tình tiết phải xem xét khi lượng hình phạt, theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ:  Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; Đã tự nguyện bồi thường khắc phục một phần hậu quả cho bị hại; Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo có một phần lỗi của phía bị hại, do vậy được áp dụng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 – khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Xét ngày 28/3/2019, giữa gia đình bị cáo và bị hại đã tự nguyện thỏa thuận xong vấn đề bồi thường thiệt hại cho bị hại với tổng số tiền là 4.000.000đ. Xét là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều  584, 585, 586 và 590 Bộ luật dân sự. Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu gì thêm, do vậy không đặt ra vấn đề xem xét, giải quyết.

[9] Xử lý vật chứng:

- Đối với số vật chứng gồm: 01 con dao bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và 01 thanh gỗ bị hại sử dụng nhằm đánh lại bị cáo. Cần áp dụng các điểm a, c khoản Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Để tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với việc xử lý vật chứng của cơ quan Điều tra đã trả lại vật chứng là 01 đối dép cho bị hại, do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Xét là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Bị cáo thuộc hộ gia đình nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[11] Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 – các điểm b, s khoản 1 Điều 51 – khoản 2 Điều 51 - điểm h khoản 1 Điều 52 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Quàng Văn S phạm tội: Cố ý gây thương tích.

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn S 30 ( Ba mươi ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 19/12/2018 ( Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 ( Một ) con dao dài 34 cm, cán dao bằng gỗ dài 14,5 cm, đường kính cán dao 3,5 cm, lưỡi dao bằng kim loại một lưỡi sắc dài 19,5 cm, mũi dao tù, chỗ rộng nhất của lưỡi dao là 4,8 cm, chỗ hẹp nhất 3,6 cm; sống dao dày 0,4 cm, nơi tiếp giáp cán dao và lưỡi dao được quấn bằng một dây cao su màu đen bản rộng 0,4 cm;

+ 01 ( Một ) thanh gỗ màu nâu, dài 87 cm, dạng ba cạnh, bề mặt thanh gỗ nham nhở, chỗ rộng nhất của thanh gỗ là 6,5 cm; chỗ hẹp nhất là 3,4 cm.

3. Án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Miễn cho cáo không phải nộp án án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo và bị hại biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

285
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 40/2019/HSST ngày 19/04/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:40/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;