TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 40/2019/HSST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 08 tháng 10 năm 2019. Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xét xử sở thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 32/2019/HSST, ngày 26 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2019/QĐXXST-HS, ngày 24/9/2019, đối với bị cáo:
1. Nguyễn Văn M, sinh năm 1979 Nơi cư trú: Xóm 3, xã HL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 3/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông: Nguyễn Văn L (chết) và bà Nguyễn Thị C ; vợ: Đặng Thị L, sinh năm 1988; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/02/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.
2. Người bào chữa cho bị cáo:
Ông; Nguyễn Văn D, sinh năm 1986 Là Luật sư, thuộc Văn phòng Luật sư Vinh Diện và cộng sự
Địa chỉ: Phòng 301, Tòa nhà Yên Hòa, số 9A, đường NT, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa
3. Bị hại: Ông; Nguyễn Hữu V, sinh năm 1967
Địa chỉ: Xóm 3A, xã HL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An Có mặt tại phiên tòa.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
4.1. Ông; Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1970
Địa chỉ: Xóm 3A, xã HL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.
4.2. Chị: Đặng Thị L, sinh năm 1988. Có mặt
Địa chỉ: Xóm 3, xã HL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm như sau: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 06/11/2018, Nguyễn Văn M và vợ là Đặng Thị L, sinh năm 1988, đang phát sẻ bụi cây và cắt cỏ ở đường đi vào trang trại của gia đình thuộc xóm 3, xã HL, huyện Thanh Chương, Nghệ An, thì Nguyễn Hữu V (sinh năm 1967, trú cùng xóm) đi xe mô tô đến. Khi gặp nhau anh Vinh và Mậu có nói nhau chuyện đào hố trồng cây ở bên đường vào trang trại nhà Mậu và ngăn không cho Mậu trồng cây vì đó là lối đi chung giữa hai trang trại. Giữa anh V và M xẩy ra to tiếng cãi vã, thách thức nhau. Lúc này anh V cầm 01 ống tuýp bằng kim loại dài 01 m, đường kính 02 cm, còn M đang mang trên người 01 máy cắt cỏ tự chế có chiều dài 1,72 m, phía đuôi máy gắn máy nổ, phía trước máy có gắn một lưỡi dùng để cắt được làm bằng kim loại và một con dao đăn dài 46 cm. Thấy V cầm ống tuýp đi lại phía mình thì M dùng máy cắt cỏ đang hoạt động khua về phía V thì phần thân máy cắt cỏ trúng vào ống túyp sắt làm ống tuýp sắt văng ra, M tiếp tục dùng máy cắt cỏ khua lại thì lưỡi máy cắt cỏ trúng vào bụng phía bên phải của V. V lao về phía M, vật giằng co với M và lấy được máy cắt cỏ vứt xuống ao gần đó rồi tiếp tục ôm vật lộn với M, quá trình giằng co thì chiếc dao đăn của M mang bên hông rơi ra khỏi bao. Tay trái M lấy được dao và dùng dao chém trúng đùi trái, cổ tay phải của V. V lao vào ôm vật lộn với M thì V rơi xuống ao, V vừa trèo lên bờ vừa gọi người cứu. Lúc này, Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1970, trú tại xóm 3, xã HL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An là em trai của anh V nghe thấy tiếng kêu cứu của V, nên điều khiển xe mô tô đi đến thì thấy V đang bò ở dưới ao lên bờ ao tay đang ôm bụng, máu chảy nhiều. Anh Q kéo V lên rồi đuổi theo đánh M. Khi đuổi kịp, Q dùng tay phải đấm nhiều phát vào vùng đầu và mặt bên trái của Mậu rồi quay lại chỗ V đang nằm cùng mọi người đưa V đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Thanh Chương và Bệnh viện đa khoa tỉnh Nghệ An đến ngày 26/11/2018 thì ra viện.
Ngày 03/12/2018, Nguyễn Hữu V có đơn đề nghị giám định thương tích và yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Ngày 16/01/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Chương có Quyết định trưng cầu giám định số 39/CSĐT(HS). Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 13/TTPY ngày 18/01/2019, của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế tỉnh Nghệ An đã kết luận:
“Vết thương thấu bụng bên phải đã được phẫu thuật thăm dò, lau rửa, dẫn lưu ổ bụng, hiện tại ổn định.
Vết thương 1/3 dưới trước trong cẳng tay phải, gãy 1/3 dưới xương trụ cẳng tay phải; đứt gân gấp cổ tay phải đã được phẫu thuật kết hợp xương trụ cẳng tay phải; khâu nối gân gấp cổ tay phải. Hiện tại ảnh hưởng nhiều đến động tác gấp duỗi cổ tay phải.
Sẹo vết thương thành bụng bên phải và đùi phải không ảnh hưởng đến chức năng.
Tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 43% (Bốn mươi ba phần trăm).
Ngày 29/01/2019, Nguyễn Văn M có đơn đề nghị giám định thương tích. Ngày 14/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Chương có Quyết định trưng cầu giám định số 47/CSĐT(HS). Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 34/TTPY ngày 21/02/2019, của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế tỉnh Nghệ An đã kết luận: “Chấn thương sọ não kết quả điều trị ổn định.
Vùng gò má bên trái và vùng thái dương bên phải hiện tại không có dấu vết tổn thương, không ảnh hưởng chức năng.
Tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 3% (Ba phần trăm).
Trong quá trình điều tra, bị can Nguyễn Văn M có biểu hiện tinh thần hoảng loạn, nên ngày 18/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Chương tiến hành trưng cầu giám định tâm thần đối với bị can Nguyễn Văn M. Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 200/KLGĐ ngày 13/6/2019 của Viện pháp y tâm thần Trung ương Bộ Y tế đã kết luận:
" Trước, trong khi phạm tội bị can Nguyễn Văn M không có bệnh tâm thần. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiền hành vi.
Tại thời điểm giám định, bị can Nguyễn Văn M có biểu hiện Hội chứng sau chấn động não (mức độ suy nhược chấn thương), bệnh ở giai đoạn ổn định. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F07.2. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Người bị hại trình bày: khoảng 15 giờ 30 phút ngày 06/11/2018 anh Nguyễn Hữu V đi chăn bò ở trong Trang trại chăn nuôi trồng trọt của gia đình ở xóm 3, xã HL, huyện Thanh Chương, khi đi có cầm theo 01 gậy bằng kim loại (tuýp sắt), lúc đi qua trại của Nguyễn Văn M sát trại của anh, thấy Nguyễn Văn M và vợ là Đặng Thị L đang đào hố và phát cây bằng dao bên mép đường lối đi chung của 2 gia đình, anh dừng xe lại nói với Nguyễn Văn M là "đừng trồng cây dọc đường, để xe đi lại không vướng", Nguyễn Văn M trả lời "tau trồng chứ tau hại đếch chi", sau đó hai bên lời qua tiếng lại với nhau, sau đó Nguyễn Văn M đi vào trong nhà, mang trên người máy cắt cỏ đã nổ máy, Nguyễn Văn M dùng máy cưa khua ngang về phía anh, thân của máy cưa khua trúng vào cây tuýp sắt anh đang chống dưới đất văng ra, sau đó Nguyễn Văn M tiếp tục khua ngang máy cưa trở lại, lưỡi máy cưa trúng vào phần hông và bụng phía bên phải của anh, anh lao vào Nguyễn Văn M cầm được cán máy cưa và dằng co lấy được máy cưa vứt xuống ao, anh thấy đau nơi vết thương và nhìn xuống thấy ruột lòi ra, thì dùng tay trái ôm vết thương và quỳ xuống, thì Nguyễn Văn M dùng dao chém trúng vào đùi trái và tay phải của anh, anh vùng dậy cướp được dao của Nguyễn Văn M vứt đi, thì bị Nguyễn Văn M xô rơi xuống ao, anh đau kêu cứu thì thấy em trai là Nguyễn Hữu Q chạy sang kéo lên khỏi bờ ao và sau đó anh được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Thanh Chương và sau đó điều trị tại Bệnh viện đa khoa Nghệ An đến ngày 26/11/2018 thì ra viện. Nay anh yêu cầu bị cáo bồi thường các khoản như sau: Tiền thuốc có hóa đơn chứng từ là: 27.079.030 đồng; tiền không có hóa đơn chứng từ gồm: tiền thuê xe chờ từ Hạnh Lâm xuống Bệnh viện đa khoa Thanh Chương 400.000 đồng, tiền xe đi từ Bệnh viện Thanh Chương xuống Bệnh viện đa khoa Nghệ An 700.000 đồng, tiền thuê xe từ Bệnh viện đa khoa Nghệ An về nhà 1.000.000 đồng, tiền thuê xe đi Vinh để phục hồi chức năng 1.000.000 đồng, tiền xe đi lại của người nhà và người chăm sóc: 2.000.000 đồng, tiền ăn của anh trong thời gian điều trị 20 ngày x 100.000 đồng và sau điều trị 10.000.000 đồng; tiền ăn cho người chăm sóc trong thời gian điều trị 20 ngày là 2.880.000 đồng; tiền ăn cho anh và người chăm sóc anh trong 05 ngày đi phục hồi chức năng 800.000 đồng; tiền công cho người chăm sóc anh trong thời gian điều trị và phục hồi chức năng (05 ngày phục hồi tại Bệnh viện đa khoa Nghệ An) là 10.250.000 đồng; tiền thuê người trông coi trang trại, chăn dắt trâu bò, chăm sóc trang trại trong thời gian điều trị tại bệnh viện và sau khi ra viện là 75 ngày x 300.000 đồng/ngày là 22.500.000 đồng; tiền công lao động của anh 10 tháng (đã trừ 02 tháng 15 ngày thuê trông coi) x 7.500.000 đồng/tháng là 75.000.000 đồng; tiền bù đắp tổn thất tinh thần: 60.000.000 đồng, tổng cộng là: 215.609.030 đồng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho ông 20.000.000 đồng. Vì vậy đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt; còn về trách nhiệm dân sự, đó là các khoản ông yêu cầu, còn lại đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo pháp luật, chấp nhận như thế nào ông cũng đồng ý.
Tại bản Cáo trạng số 34 ngày 23/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đã truy tố Nguyễn Văn M về tội “ Cố ý gây thương tích ” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M, từ năm năm, sáu tháng tù đến sáu năm tù. Áp dụng Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại số tiền: từ 75.000.000 đồng – 100.000.000 đồng. Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 tuýp sắt, 01 con dao là vật chứng của vụ án; trả lại máy cắt cỏ cho vợ chồng bị cáo. Tách yêu cầu của bị cáo Nguyễn Văn M đối với ông Nguyễn Hữu Q để giải quyết bằng một vụ án khác, vì chưa đủ các chứng cứ để xem xét. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Luật sư của bị cáo có ý kiến như sau:
Về tội danh không có ý kiến gì. Còn về nguyên nhân và lỗi dẫn đến sự việc xảy ra, người bị hại cũng có một phần lỗi, đó là bị hại đến nhà bị cáo gây gỗ, xích mích dẫn đến bị cáo gây thương tích cho bị hại; Hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề xuất quá cao, vì bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cáo, tự nguyện bồi thường tại phiên tòa 20.000.000 đồng. Các khoản yêu cầu của bị hại là trùng lặp, đề nghị Tòa án xem xét theo pháp luật. Đề nghị Tòa án xem xét các yêu cầu của bị cáo đối với việc ông Nguyễn Hữu Q gây thương tích cho bị cáo khoảng 48.500.000 đồng. Đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54 và Điều 134 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Chương, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn M, đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp vơi biên bản xem xét dấu vết trên thân thể ngày 07/11/2018; phù hợp với hồ sơ bệnh án; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với vật chứng đã thu được; phù hợp với kết luận giám định số 13/TTPY ngày 18/01/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Nghệ An. Xét về chứng cứ đã có đủ cơ sở để kết luận:
Vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 06/11/2018, tại xóm 3, xã HL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, do mâu thuẫn trong việc tranh chấp đất đai Nguyễn Văn M đã có hành vi dùng 01 máy cắt cỏ đang hoạt động có chiều dài 1,72 m, phía sau đuôi máy gắn máy nổ, phía trước máy có gắn một lưỡi dùng để cắt được làm bắng kim loại dài 33 cm, rộng 08 cm và một con dao đăn dài 46 cm phần lưỡi dao làm bằng kim loại dài 26 cm, cán dao bằng gỗ dài 20 cm gây thương tích cho ông Nguyễn Hữu V ở bụng bên phải; gãy 1/3 dưới xương trụ cẳng tay phải; đứt gân gấp cổ tay phải với tổng tỷ lệ thương tích là 43%. (Bốn mươi ba phần trăm).
Như vậy đã có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội "Cố ý gây thương tích ”, như Viện kiểm sát truy tố là đúng.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, ảnh hưởng đến an ninh trật xã hôị; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật; bị cáo đã dùng dao và máy cắt cỏ là hung khí nguy hiểm và vật dụng có tính gây sát thương nguy hiểm cao gây thương tích cho người khác, thuộc điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự. Cho nên cần xét xử nghiêm, mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung và cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo.
Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hành vi phạm tội; tại phiên tòa bị cáo và gia đình đã bồi thường cho người bị hại số tiền 20.000.000 đồng; bố bị cáo là người có công tham gia Dân công hỏa tuyến; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; vợ bị cáo đã tự nguyện nộp 1.000.000 đồng vào Chi cục thi hành án dân sự để khắc phục hậu quả. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cho nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo, để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.
[4] Đối với thương tích 03% của Nguyễn Văn M:
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không có căn cứ chứng minh Nguyễn Hữu V đánh Nguyễn Văn M. Cho nên Cơ quan điều tra không khởi tố đối với Nguyễn Hữu V như yêu cầu của Nguyễn Văn M.
Đối với anh nguyễn Hữu Q đã có hành vi dùng tay đấm vào mặt, vào đầu Nguyễn Văn M trong tình trạng khi thấy anh trai mình bị thương tích do Nguyễn Văn M gây ra là thuộc trong trạng thái tinh thần bị kích động, hơn nữa tỷ lệ thương tích là 03%, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Nên Công an huyện Thanh Chương không khởi tố bị can, mà đã xử phạt hành chính bằng tiền đối với Nguyễn Hữu Q là đúng quy định của pháp luật.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
5.1. Về trách nhiệm dân sự của người bị hại:
Xét thấy các yêu cầu của người bị hại về việc yêu cầu bị cáo bồi thường là có cơ sở; bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho người bị hại. Cho nên người bị hại yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại, là có cơ sở để xem xét.
Song xét thấy các yêu cầu của người bị hại là trùng lặp yêu cầu, yêu cầu hơi cao và một số không có cơ sở để chấp nhận như: Tiền thuê xe chở đi phục hồi chức năng sau khi điều trị 1.000.000 là cao, vì lúc này bị hại đã ổn định cho nên thuê xe đi là không phù hợp, mà chỉ chấp nhận đi bằng phương tiện công cộng; tiền đi lại của người nhà 2.000.000 đồng là hơi cao; tiền ăn bồi dưỡng sau khi ra viện là không có căn cứ để chấp nhận; tiền ăn cho người chăm sóc là không có căn cứ chấp nhận, vì bình thường người chăm sóc cũng chi để ăn uống trong tiền công thu nhập của mình; tiền công người chăm sóc là 10.250.000 đồng là hơi cao, mà chỉ chấp nhận tiền công chăm sóc cho 01 người trong thời gian điều trị và phục hồi chức năng; tiền thuê người trông coi trang trại, chăn dắt trâu bò, chăm sóc trang trại là không có căn cứ để chấp nhận, vì bình thường nếu có thì công trông coi trang trại trâu bò của người bị hại cũng sẽ được chi trong tiền công thu nhập của người hại; tiền công không thu nhập 10 tháng là quá dài; tiền đền bù tổn thất tình thần 60.000.000 đồng là quá cao.
Vì vậy chỉ chấp nhận các khoản sau: Tiền thuốc có hóa đơn chứng từ là: 27.079.030 đồng; tiền thuê xe chờ từ HL xuống Bệnh viện đa khoa Thanh Chương 400.000 đồng; tiền xe đi từ Bệnh viện Thanh Chương xuống Bệnh viện đa khoa Nghệ An 700.000 đồng; tiền thuê xe từ Bệnh viện đa khoa Nghệ An về nhà 1.000.000 đồng; tiền thuê xe đi Vinh để phục hồi chức năng 300.000 đồng; tiền xe đi lại của người nhà và người chăm sóc: 1.000.000 đồng; tiền ăn bồi dưỡng để phục hồi sức khỏe của bị hại trong thời gian điều trị và phục hồi chức năng là 25 ngày x 100.000 đồng là 2.500.000 đồng; tiền công cho 01 người chăm sóc cho người bị hại trong thời gian điều trị và phục hồi chức năng là 25 ngày x 250.000 đồng/ngày là 6.250.000 đồng; tiền công không thu nhập của người bị hại trong thời gian điều trị và đi phục hồi chức nằng là 25 ngày và một thời gian hợp lý sau điều trị (thiệt hại 43% sức khỏe) tất cả là 02 tháng x 7.500.000 đồng/tháng là 15.000.0000 đồng; tiền tổn thất tinh thần do thiệt hại 43% sức khỏe tương ứng với khoảng 23 tháng lương cơ sở là 34.270.000 đồng. Tổng cộng các khoản được chấp nhận là: 88.499.030 đồng. Tại phiên tòa bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường được 20.000.000 đồng cho người bị hại, cho nên cần khấu trừ số tiền này cho bị cáo.
5.2. Về trách nhiệm dân sự của Nguyễn Văn M:
Bị cáo yêu cầu những người gây thương tích (03%) cho mình gồm: Tiền viện phí có hóa đơn là 10.755.000 đồng; tiền mua thuốc ngoài để tiêm sau khi đi viện về là 5.750.000 đồng; tiền ăn uống bồi dưỡng thêm là 3.500.000 đồng; tiền chi phi đi lại là 3.000.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần về kinh tế là 2.500.000 đồng; tiền tổn thất về tinh thần là 10.000.000 đồng. Tổng cộng yêu cầu là: 56.625.000 đồng.
Xét thấy không có căn cứ buộc người bị hại bồi thường, vì không có căn cứ là người bị hại gây thương tích cho bị cáo.
Thương tích của bị cáo (03%) là do quá trình xô xát và bị anh Nguyễn Hữu Q đấm vào mặt và đầu, cho nên trách nhiệm bồi thường thuộc về anh Nguyễn Hữu Q. Song thương tích của bị cáo cũng có một phần lỗi của bị cáo, vì anh Nguyễn Hữu Q đánh bị cáo trong tình trạng tinh thần bị kích động do thấy anh trai mình bị thương do bị cáo gây ra.
Xét các yêu cầu của bị cáo đã kê khai và các chứng cứ đã cung cấp, cũng như tại phiên tòa chưa cung cấp được các chứng cứ thiệt hại về sức khỏe 03% do bị đánh để Tòa án xem xét giải quyết. Các chứng cứ như tiền viện có hóa đơn chỉ 3.120.000 đồng, song các hóa đơn này là điều trị tại Bệnh viện tâm thần sau khi sự việc xảy ra một thời gian, không liên quan đến thương tích 03%. Vì vậy cần tách ra giải quyết bằng một vụ án khác, khi bị cáo có yêu cầu đối với anh Nguyễn Hữu Q và cung cấp được các chứng cứ theo quy định của pháp luật.
[6] Xét ý kiến của các Luật sư:
Việc Luật sư đề nghị xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt theo Điều 54 Bộ luật hình sự là không có căn cứ, vì thương tích mà bị cáo gây ra cho bị hại là cao. Người bị hại không có lỗi, vì việc hai bên có lời quá tiếng lại là do có tranh chấp với nhau về đất đai. Đối với thiệt hại về sức khỏe của bị cáo do anh Nguyễn Hữu Q gây ra, do bị cáo chưa cung cấp được các chứng cứ, nên tách ra giải quyết bằng một vụ án khác là đảm bảo quyền lợi của bị cáo.
[7] Về vật chứng: Trong quá trình điều tra có thu giữ 01 tuýp sắt; 01 máy cắt cỏ dài 1,72 m, phía sau gắn máy nổ; 01 con dao dài 46 cm, lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ.
Xét thấy 01 con dao và tuýp sắt là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội, cho nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc máy cắt cỏ có gắn máy nổ, là công cụ dùng để lao động sản xuất của gia đình bị cáo, có giá trị sử dụng. Cho nên cần trả lại cho vợ chồng bị cáo Nguyễn Văn M và chị Đặng Thị L.
Đối với số tiền 1.000.000 đồng do vợ bị cáo đã tự nguyện nộp để bồi thường. Cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Điều 584, 585, 590 Bộ luật dân sự. Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn M, phạm tội “ Cố ý gây thương tích ”.
2. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Văn M, 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2019
3. Về trách nhiệm dân sự:
3.1. Buộc bị cáo Nguyễn Văn M có trách nhiệm bồi thường toàn bộ các chi phí điều trị do thiệt hại về sức khỏe cho người bị hại là ông Nguyễn Hữu V với số tiền là: 68.499.030 đồng (Sáu mươi tám triệu, bốn trăm, chín mươi chín ngàn, ba mươi đồng).
3.2. Tách yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe của Nguyễn Văn M đối với anh Nguyễn Hữu Q ra giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4.Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 ống tuýp sắt; 01 con dao, lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ.
Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn M và chị Đặng Thị L, 01 chiếc máy cắt cỏ có gắn máy nổ.
(Chi tiết vật chứng có tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Chương) Tạm giữ số tiền 1.000.000 đồng (chị Đặng Thị Lê nộp thay cho Nguyễn Văn M) để đảm bảo thi hành án, theo Biên lai thu tiền số 0000647 ngày 17/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Chương
5. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn M, phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn), án phí hình sự sơ thẩm và 3.424.000 đồng (Ba triệu, bốn trăm, hai mươi bốn ngàn đồng) án phí dân sự.
6. Bị cáo; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 40/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 40/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về