TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 397/2018/HSPT NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 313/TLPT-HS ngày 24 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo Hà Văn H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2018/HSST ngày 14/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
* Bị cáo bị kháng nghị:
Họ tên: Hà Văn H, sinh năm: 1981; Nơi cư trú: Bản Cò C, xã Quang Ch, huyện Mường L, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Hà Văn Th và bà Hà Thị H1; có vợ: Hà Thị P - Sinh năm: 1981 và có 02 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2001; tiền sự, tiền án: Không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/92017 đến nay – (Có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Ngọc Ng - Luật sư Văn phòng Luật sư Hoàng Ng1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thanh Hóa (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 01/9/2017, Hà Văn H đang ở nhà thì nhận được điện thoại của một người Lào tên là S (do H đã quen từ trước) gọi điện thuê Hà Văn H vận chuyển ma tuý (hồng phiến) từ bản T, xã Trung L1, huyện Mường L đến bản Kéo Cưa, xã Trung L1, huyện Mường L để giao cho một người thanh niên tên là Tùng, H đòi S tiền công vận chuyển là 10 triệu đồng. S nói cứ mang ma tuý đi giao, nếu trót lọt S sẽ trả nhiều hơn 10 triệu, nên H đồng ý.
Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 02/9/2017, Hà Văn H đi xe khách từ nhà xuống bản T, xã Trung L1, huyện Mường L để gặp S nhưng không gặp nên H gọi điện hỏi S nơi để ma tuý. S đã hướng dẫn H tìm bên lề đường khu vực bản T, xã Trung L1 có chiếc xe máy màu đỏ, biển Lào số 3816, trên xe có ma tuý buộc ở khung xe. Sau khi tìm được chiếc xe theo sự chỉ dẫn của S, H lấy xe và đi về hướng bản Kéo Cưa thì gặp người thanh niên tên là T1, H định đưa gói ma tuý thì T1 nói đi thêm một đoạn nữa, xong T1 đi xe máy trước còn H đang cầm gói ma tuý trên tay thì bị bắt quả tang.
Vật chứng của vụ án thu giữ gồm:
- 01(một) túi nilong màu trắng bên trong đựng 10 (mười) gói nilong màu xanh, trong mỗi gói có chứa các viên nén hình trụ tròn màu đỏ và màu xanh. Tổng số có 1993 (một nghìn chín trăm, chín ba) viên, trên bề mặt có chữ WY.
- 01 (một) điện thoại di động VIVO, màu đen đã qua sử dụng (không kiểm tra bên trong).
- 01 điện thoại di động FPT màu xanh đen đã qua sử dụng (không kiểm tra bên trong).
- 01 xe máy Honda Wave RSX biển số Lào 3816, màu đỏ đen (đã qua sử dụng).
Kết luận giám định số 1958/MT-PC54 ngày 05/9/2017 kết luận: 1993 viên nén, trong đó có 1973 viên nén màu đỏ và 20 viên nén màu xanh, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY”, có tổng trọng lượng là 203,517 gam, loại Methamphetamine.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã trưng cầu giám định về hàm lượng chất ma túy.
Tại Bản kết luận giám định số 188/MT-PC54 ngày 05/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Các viên nén màu đỏ, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” có hàm lượng Methamphetamine là 14,75%; các viên nén màu xanh, trên bề mặt mỗi viên có ký hiệu “WY” có hàm lượng Methamphetamine là 13,65%.
Với hành vi nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:
Tuyên bố: Hà Văn H phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”
Áp dụng: Điểm m khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 41; Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Hà Văn H 12 (mười hai) năm tù. Hạn tù tính từ ngày 02/9/2017. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/3/2018, VKSND tỉnh thanh Hóa có quyết định kháng nghị số 05/QĐ-KNPT-P1 đề nghị xử bị cáo theo khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự và xử tăng hình phạt đối với bị cáo;
Tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án đồng thời phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao đề nghị Hội đồng xét xử: Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy là có căn cứ đúng người đúng tội đúng pháp luật. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm đã đi giám định lại và xử bị cáo theo Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là không đúng, do đó đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử bị cáo theo Khoản 3 Điều 194 và xử tăng hình phạt đối với bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét Tòa án sơ thẩm xử bị cáo theo khoản 2 Điều 194 là có căn cứ, đề nghị không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, luật sư;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết do đó thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và xét xử bị cáo về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" theo điểm m khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật và không oan..
Hành vi của của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng; xâm phạm đến quyền quản lý đọc quyền của nhà nước về các chất ma túy, tệ nạn ma tuy là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác trong xã hội, mặc dù nhận thức rõ tác hại và hậu quả khôn lường của việc mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép các chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn phạm tội coi thường pháp luật. bị cáo có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Do vậy, cần phải áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo. như bản án sơ thẩm đã áp dụng là phù hợp tương xứng với hành vi của bị cáo.
Tại cấp phúc thẩm Hội đồng xét xử xét Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như trọng lương ma túy tinh chất mà bị cáo vận chuyển đã xử bị cáo mức án 12 năm tù theo khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng quy định của pháp luật. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa cũng như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa, cần giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
Bị cáo không Phải chịu án phí hình sự phúc thẩm
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 điều 355, 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa Giữ nguyên các quyết định bản án hình sự sơ thẩm số Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:
Tuyên bố: Hà Văn H phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”
Áp dụng: Điểm m khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 41; Điều 42 BLHS năm 1999; khoản 3 Điều 7 BLHS 2015; Điều 106; Điều 136
BLTTHS năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Hà Văn H 12 (mười hai) năm tù. Hạn tù tính từ ngày 02/9/2017. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Bản án 397/2018/HSPT ngày 21/06/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 397/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về