TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 707A/2017/HSPT NGÀY 19/10/2017 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 19 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnhSơn La, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số514/2017/TLPT-HS ngày 19 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo Hàng Thị D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2017/HSST ngày 26 tháng 5 năm 2017 của Tòa án nhân tỉnh Sơn La .
* Bị cáo có kháng cáo:
Hàng Thị D, sinh năm 1969; dân tộc: Mông; nơi ĐKNKTT: Bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: không biết chữ; con ông Hàng A T1 (đã chết) và bà Sồng Thị V; có chồng là Sồng A C (đã chết) và 03 con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh 2001; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày từ 16/12/2016; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông NBC, luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ ngày 16/12/2016, Tổ công tác của Phòng PC47 Công an tỉnh Sơn La phối hợp với các đơn vị chức năng làm nhiệm vụ tại bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La, kiểm tra phát hiện trong “Lu cở” của Hàng Thị Dđang đeo, bên trong có 08 bánh bột nén, D khai là hêrôin. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với D, thu giữ vật chứng gồm08 bánh bột nén, 01 điện thoại di động và 440.000 đồng.
Ngày 17/12/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra (PC47) - Công an tỉnh Sơn La đã thành lập hội đồng mở niêm phong cân tính xác định trọng lượng và lấy mẫu trưng cầu giám định: 08 bánh bột nén có tổng trọng lượng2.446,36 gam, trích mỗi bánh 02 gam làm mẫu trưng cầu giám định ký hiệuDl, D3, D5, D7, D9, D11, D13, D15.
Tại Kết luận giám định số 84/KLMT ngày 21/12/2016, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận: “Mẫu giám định có ký hiệu Dl, D3, D5, D7, D9, D11, D13, D15 đều là chất ma túy, loại chất hêrôin, trọng lượng chất ma túy thu giữ là 2.446,36 gam loại chất hêrôin”.
Quá trình điều tra, Hàng Thị D khai nhận: Sáng ngày 15/12/2016, D đi xe máy từ nhà (bản C, xã L, huyện V) xuống khu vực rừng già (Km A Quốc lộ B thuộc địa phận bản C, xã L, huyện V) chặt cây chuối rừng, D đã gặp Sùng A S - trú tại bản X, xã P, huyện M, tỉnh Hòa Bình (S có nhà tại khu vực rừng già). S bảo D đến nhà và đặt vấn đề thuê D vận chuyển ma túy, S sẽ trả tiền công, D nhất trí. S hẹn sáng hôm sau đến nhà S để nhận ma túy. Sáng ngày 16/12/2016, D đi xe máy xuống nhà S, S đưa cho D một bao tải dứa màu vàng bên trong có 08 bánh hêrôin, S bảo D vận chuyển đến nương ngô gần bản C giao cho Mùa A T ở cùng bản với D. D nhận bao tải bên trong đựng 08 bánh hêrôin đi xe máy quay về đến nương ngô của bản thì thấy T đang đứng chờ, D giao bao tải đựng 08 bánh hêrôin cho T rồi đi về.
Đến 12 giờ ngày 16/12/2016, S đến nhà đưa cho D 200.000 đồng nói là tiền công vận chuyển ma túy. Sau đó S nói người mua hêrôin chưa mua nên T chưa bán được, S bảo D gặp T lấy lại 08 bánh hêrôin đem về cho S. Sau khi S về, D nhận được điện thoại của T bảo đến nương ngô nơi có hốc đá D đã giao hêrôin để lấy hêrôin về trả cho S. D lấy chiếc “Lu cở” đi theo đường mòn đến nương ngô nơi có hốc đá lấy bao tải đựng 08 bánh hêrôin cho vào “Lu cở” rồi đi bộ về, trên đường về thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Đối với hai đối tượng mà D khai có liên quan đến vụ án là Sùng A S và Mùa A T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La đã xác minh tại bản X, P, M, Hòa Bình có một đối tượng tên là Sùng A S, sinh năm 1966, hiện đang ở khu vực rừng già thuộc xã L, V, Sơn La và tại bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La có một đối tượng tên là Mùa A T, sinh năm 1968. Cơ qụan điều tra đã tra cứu, lập bản ảnh đối với hai đối tượng trên và cho Hàng Thị D nhận dạng, kết quả Hàng Thị D đã nhận đúng là các đối tượng S và T. Cơ quan điều tra đã triệu tập Sùng A S, Mùa A T để điều tra làm rõ nhưng hiện tại cả hai đối tượng đều không có mặt tại địa phương. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh, có căn cứ sẽ xử lý sau.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2017/HSST ngày 26/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đã tuyên bố bị cáo Hàng Thị D phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hàng Thị D tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2016.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý tang vật, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 06/6/2017, bị cáo Hàng Thị D có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Hàng Thị D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã nêu, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm hình phạt để sớm được trở về với xã hội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung, tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo; xem xét đến nhân thân thái độ khai báo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng án sơ thẩm đã xem xét và xử bị cáo án chung thân là đã rất chiếu cố cho bị cáo, do đó đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo. Giữ y án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo Hàng Thị D nhất trí với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu, là người dân tộc thiểu số nhận thức pháp luật còn hạn chế; gia đình bị cáo thuộc diện có công với Cách mạng; cần áp dụng điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và luật sư,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Ngày 16/12/2016, tại bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La, bị cáo
Hàng Thị D bị phát hiện, bắt quả tang cùng với tang vật khi đang vận chuyển trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ như sau:
Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ, ngày 16/12/2016 đối với Hàng Thị D cùng vật chứng đã thu giữ là 08 bánh bột nén màu trắng, D khai là hêrôin, D đang trên đường vận chuyển về cho Sùng A S. Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm hoàn toàn phù hợp với nhau cũng như phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ.
Kết luận giám định số 84/KLMT ngày 21/12/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận: “Mẫu giám định có ký hiệu Dl, D3, D5, D7, D9, D11, D13, D15 đều là chất ma túy, loại chất hêrôin, trọng lượng chất ma túy thu giữ là 2.446,36 gam loại chất hêrôin”.
[2] Bị cáo Hàng Thị D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song vì hám lời đã bất chấp pháp luật để thực hiện tội phạm. Do đó, cần thiết phải có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[3] Xét thấy: Bị cáo xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hố i hận về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì nên án sơ thẩm đã áp dụng điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.
[4] Các tình tiết mà bị cáo nêu ra tại phiên tòa phúc thẩm đều đã được bị cáo đã nêu ra tại phiên tòa sơ thẩm. Trong quá trình giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không đưa ra thêm được những chứng cứ tình tiết mới để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình; bản án sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không có tình tiết gì mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo.
[5] Về án phí: Do Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo vì vậy bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Hàng Thị D, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm. Tuyên bố bị cáo Hàng Thị D phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
[2] Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 , xử phạt bị cáo Hàng Thị D tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2016.
[3] Án phí: Bị cáo Hàng Thị D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìnđồng) án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 93/2017/HSST ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 707A/2017/HSPT ngày 19/10/2017 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 707A/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/10/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về