Bản án 392/2023/DS-ST về tranh chấp yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 392/2023/DS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU CHIA THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VÀ CHIA TÀI SẢN CHUNG HỘ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 12 năm 2023 tại Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 316/2022/TLST- DS ngày 25 tháng 10 năm 2022 về tranh chấp “chia thừa kế theo pháp luật, chia tài sản chung hộ gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2023/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Tào T, sinh năm 1975 Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

Đại diện hợp pháp của ông Tào T: Bà Nguyễn Thị Dạ T1, sinh năm 1988, địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định là đại diện theo ủy quyền (theo Hợp đồng ủy quyền đề ngày 27/6/2023). (có mặt)

2. Bị đơn:

1/ Ông Tào Văn P, sinh năm 1979 (vắng mặt tại thời điểm tuyên án) Địa chỉ: Khu phố G, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

2/ Bà Tào Thị Đ, sinh năm 1982 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố G, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

3/ Bà Tào Thị N, sinh năm 1984 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố G, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

4/ Ông Tào Văn N1, sinh năm 1986 (vắng mặt tại thời điểm tuyên án) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

5/ Bà Trần Thị T2, sinh năm 1962 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1975 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

2/ Anh Tào Văn D, sinh năm 1993 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

3/ Ông Tào N2, sinh năm 1973 Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

Đại diện hợp pháp của ông Tào N2 : Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1969, địa chỉ : Khu phố Đ, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định là đại diện theo ủy quyền (Theo Hợp đồng ủy quyền đề ngày 23/8/2023) (có mặt).

4/ Ông Tào T3, sinh năm 1961 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố G, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

5/ Ông Tào T4, sinh năm 1967 (có yêu cầu xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn D, xã C, huyện C, tỉnh Đăk Lăk 6/ Bà Tào Thị N3, sinh năm 1965 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

7/ Bà Huỳnh Thị Bích N4, sinh năm 1973 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

8/ Ông Tào Văn H1, sinh năm 1968 (yêu cầu giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

9/ Bà Tống Thị M, sinh năm 1970 (yêu cầu giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

10/ Ông Từ Văn T5, sinh năm 1975 (yêu cầu giải quyết vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố A, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

11/ Ủy ban nhân dân phường H.

Địa chỉ: Khu phố Đ, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn H2 - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường H (có yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

+ Theo đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn ông Tào T là: Ông T là con của ông Tào D1, sinh năm 1929, chết ngày 29/6/2003, mẹ Đặng Thị T6 sinh năm 1929, chết này 11/9/2016. Lúc sinh thời cha mẹ sinh được 06 người con gồm :

1. Tào S4, chết có vợ con là: Trần Thị T2, Tào Văn P, Tào Thị Đ, Tào Thị N, Tào Văn N1.

2. Tào T3, sinh năm 1961

3. Tào Thị N3, sinh năm 1964

4. Tào T6, sinh năm 1967

5. Tào N2, sinh năm 1973

6. Tào T, sinh năm 1975.

Thực hiện Nghị định số 64/CP của Chính phủ thì hộ gia đình cha mẹ ông T được Nhà nước cân đối giao quyền sử dụng 1.364m2 đất (trong đó có 200m2 đất ở) tại thửa đất số 940, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 1997) phường H; 1.656 m2 đất (trong đó có 200m2 đất ở) tại thửa đất số 941, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 1997) phường H; 648m2 đất màu tại thửa đất số 997B, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 1997) phường H; 400m2 đất lúa tại thửa đất số 1260, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 1997) phường H; 272m2 đất lúa tại thửa đất số 668A, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 1997) phường H.

Tại thời điểm cân đối giao quyền sử dụng đất thì hộ gia đình cha ông T gồm có các nhân khẩu: Tào Dững, Đặng Thị T6, Tào Thị N3, Tào N2, Tào T, Nguyễn Thị X, Tào Văn D.

Hiện tại thửa đất số 940, tờ bản đồ số 9 phường H ông T và anh Tào N2 đang quản lý sử dụng, xây dựng nhà trên đất này, giữa hai anh em đã có ranh giới ổn định.

Nay ông T yêu cầu tòa xem xét giải quyết chia thừa kế di sản của cha mẹ ông T để lại theo quy định của pháp luật, chia đất hộ gia đình theo Nghị định 64/CP của Chính phủ. Cụ thể: Ông T yêu cầu được nhận phần đất có nhà của ông T tại thửa đất số 940, tờ bản đồ số 9 phường H; giao thửa đất số 668A, tờ bản đồ số 9 cho bà Tào Thị N3; các thửa đất còn lại chia theo quy định pháp luật.

Ông T không thống nhất với nội dung biên bản bàn giao đề ngày 27/11/2006 (âm lịch) do phía bị đơn cung cấp.

+ Theo trình bày của bị đơn, các ông bà Tào Văn P, Tào Thị Đ, Tào Thị N, Tào Văn N1 là: Các ông bà là con của ông Tào S và bà Trần Thị Tuyết . Ông Tào S chết năm 2009. Vào năm 2006, bà nội Đặng Thị T6 khi còn sống đã thống nhất để lại cho cha mẹ các ông bà là ông S, bà T2 sử dụng thửa đất số 941, tờ bản đồ số 09 phường H. Sau khi ông Tào S chết, bà T2 vẫn tiếp tục quản lý đất đai và thực hiện việc thờ cúng.

Nay ông Tào T yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình, các ông bà có yêu cầu như sau:

Giao cho bà Trần Thị Tuyết t quyền quản lý sử dụng thửa đất số 941, tờ bản đồ số 09 phường H để ở và thực hiện việc thờ cúng, hương khói.

Đối với các thửa đất còn lại, thửa đất số 940, 997B (đất màu), 1260 (đất lúa), 668A (đất lúa) cùng tờ bản đồ số 9 phường H, các ông bà không có yêu cầu gì, các cô các chú tự định đoạt, phân chia.

+ Theo trình bày của bị đơn, ông Tào Văn N1 là: Tôi là chủ sử dụng thửa đất số 602, tờ bản đồ số 09 phường H. Liền kề với thửa đất của tôi là thửa đất số 941, tờ bản đồ số 09 phường H của hộ ông Tào D1. Ranh giới giữa hai thửa đất đã được sử dụng ổn định từ trước tới nay. Tôi đã xây dựng hàng rào lưới B40 kiên cố. Tôi không có yêu cầu hay tranh chấp gì đối với phần ranh giới này.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Trần Thị T2 là: Tôi là vợ của ông Tào S. Ông Tào S chết năm 2009. Vào năm 2006, mẹ chồng tôi, bà Đặng Thị T6 khi còn sống đã thống nhất để lại cho vợ chồng tôi quản lý sử dụng thửa đất số 941, tờ bản đồ số 09 phường H. Đến năm 2007, tôi có sửa sang lại nhà cửa. Sau khi chồng tôi chết, tôi vẫn tiếp tục quản lý đất đai và thực hiện việc thờ cúng.

Nay ông Tào T yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình, tôi có yêu cầu như sau:

Giao cho tôi trọn quyền quản lý sử dụng thửa đất số 941, tờ bản đồ số 09 phường H để ở và thực hiện việc thờ cúng, hương khói.

Đối với các thửa đất còn lại, thửa đất số 940, 997B (đất màu), 1260 (đất lúa), 668A (đất lúa) cùng tờ bản đồ số 9 phường H, tôi không có yêu cầu gì, để các cô các chú tự định đoạt, phân chia.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Tào N2 là: Quan hệ nhân thân như ông T trình bày là đúng. Về yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình của ông T, tôi đồng ý chia. Tôi có ý kiến được chia như sau:

- Giao cho tôi phần đất gắn liền với nhà ở tại thửa đất số 940, tờ bản đồ số 9 phường H.

- Giao cho tôi phần đất màu tại thửa đất số 997B, tờ bản đồ số 9 phường H.

Tôi không thống nhất với nội dung biên bản bàn giao đề ngày 27/11/2006 (âm lịch).

+ Theo trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Tào T3 là: Quan hệ nhân thân như ông T trình bày là đúng. Về yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình của ông T, tôi đồng ý chia. Phần của tôi được nhận, tôi yêu cầu được chia bằng hiện vật. Tôi yêu cầu chia cho tôi một phần đất tại thửa đất số 941, nếu diện tích đất chia cho tôi không đủ tách thửa tôi đồng ý nhập với em Tào T. Xin được chia phần đất có nhà, thối lại giá trị nhà cho chị Trần Thị T2 để tôi và em Tào T cùng lo hương khói ông bà.

Không thống nhất với nội dung biên bản bàn giao đề ngày 27/11/2006 (âm lịch).

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Tào T4 là: Quan hệ nhân thân như ông T trình bày là đúng. Về yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình của ông T, tôi đồng ý chia. Phần của tôi được nhận, tôi từ chối nhận, giao lại cho hai em là Tào N2 và Tào T. Tôi từ chối vì tình cảm gia đình, không vì trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho người khác.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Tào Thị N3 là: Quan hệ nhân thân như ông T trình bày là đúng. Về yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình của ông T, tôi đồng ý chia. Phần của tôi được nhận, tôi từ chối nhận, giao lại cho hai em là Tào N2 và Tào T. Tôi yêu cầu được nhận thửa đất lúa số 227, tờ bản đồ số 9 để canh tác, sử dụng. Tôi từ chối vì tình cảm gia đình, không vì trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho người khác.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Nguyễn Thị X, anh Tào Văn D là: Thống nhất với yêu cầu chia của ông T. Về phần đất mà bà X, ông D được cân đối giao quyền theo Nghị định số 64/CP của Chính phủ bà X, ông D giao hết cho ông Tào Văn N5 trọn quyền sử dụng.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Huỳnh Thị Bích N4 là: Tôi là vợ ông Tào T. Vợ chồng tôi kết hôn năm 1994. Sau khi về sinh sống, vợ chồng tôi có cùng nhau tạo dựng lên một ngôi nhà trên thửa đất số 940, tờ bản đồ số 09 phường H. Nhà xây dựng khoảng năm 1999.

Nay chồng tôi có yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình có liên quan đến thửa đất số 940, tờ bản đồ số 09 phường H, tôi có ý kiến như sau: Đối với ngôi nhà chung của vợ chồng được xây dựng trên thửa đất này, tôi không có yêu cầu hay tranh chấp gì, tôi thống nhất giao toàn bộ ngôi nhà trên đất cho chồng tôi trọn quyền sở hữu.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Tào Văn H1 là: Tôi là chủ sử dụng thửa đất số 604, tờ bản đồ số 23 (bản đồ VN 2000) phường H. Liền kề với thửa đất số 603+633-VN 2000 phường H. Gia đình tôi đã ở trên thửa đất từ lâu. Giữa hai thửa đất đã xây dựng hàng rào kiên cố làm ranh giới. Ranh mốc giới giữa hai thửa đất đã ổn định.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà Tống Thị M là: Tôi là chủ sử dụng thửa đất số 631, tờ bản đồ số 23 (bản đồ VN 2000) phường H. Thửa đất của tôi liền kề với thửa đất số 603+633-VN 2000 phường H. Gia đình tôi đã ở trên thửa đất từ lâu và xây dựng hàng rào bê tông kiên cố để làm ranh giới giữa hai thửa đất.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Từ Văn T5 là: Tôi là chủ sử dụng thửa đất số 632, tờ bản đồ số 09 (bản đồ VN 2000) phường H. Liền kề với thửa đất số 603+633-VN 2000 phường H. Gia đình tôi đã ở trên thửa đất này từ trước năm 1993 cho đến nay. Ranh giới giữa hai thửa đất đã ổn định, xây dựng kiên cố bằng hàng rào bê tông.

+ Theo trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện Ủy ban nhân dân phường H là: Phần diện tích 32.9 m2 tại thửa đất số 941, tờ bản đồ số 09 phường H có nguồn gốc từ việc di dời hai ngôi mộ đất do nhân thân của ngôi mộ đã hốt cốt di dời đến nơi khác vào năm 2017, năm 2022.

Phần diện tích 4.4 m2 tại thửa đất số 941, tờ bản đồ số 09 phường H là đất của ông Tào D1 sử dụng từ trước đến nay.

Nguồn gốc thửa đất số 940, 941 cùng tờ bản đồ số 09 phường H là do ông Tào D1 sử dụng từ trước năm 1993 đến khi nhà nước thực hiện Nghi định 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 thì được nhà nước cân đối cấp giấy chứng nhận cho hộ ông Tào D1.

+ Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là phù hợp quy định của pháp luật. Tuy nhiên còn vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử.

Về nội dung: áp dụng các Điều 102, 212, 219, 262, 612, 613, 630, 649, 643, 650, 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, các Điều 147, 157 Luật Tố tụng dân sự; khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tào T về việc chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình.

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự về việc phân chia các thửa đất số 940, 997B, 1260, 668A cùng tờ bản đồ số 09 phường H.

Về chi phí định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: nguyên đơn thỏa thuận nộp.

Về án phí: các bên nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng, thẩm quyền: Phần diện tích đất có yêu cầu chia thừa kế giữa hai bên tọa lạc tại phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định. Căn cứ quy định tại Điều 26, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.

[2] Về nội dung:

[2.1] Đối với “biên bản bàn giao” đề ngày 27/11/2006 (âm lịch) nhằm ngày 15/01/2007. Đây là thời điểm sau khi ông Tào D1 chết, các con ông Tào D1 thống nhất giao nhà đất cho vợ chồng ông Tào S sử dụng hương khói cho ông bà. Trong văn bản này có chữ ký của ông Tào N5, Tào T, bà X cùng vợ chồng ông Tào S, bà Trần Thị Tuyết . Tuy nhiên trong biên bản này không thể hiện phần đất giao cho vợ chồng ông Tào S là thửa đất nào, về nội dung của văn bản này không thể hiện được là đó là hợp đồng tặng cho hay là di chúc của cụ Đặng Thị T6. Các bên cũng không làm thủ tục để sanh tên quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Hơn nữa nếu các bên thỏa thuận là thửa đất mà bà Trần Thị T2 đang quản lý thì đây là đất cấp cho hộ gia đình ông Tào D1 nên khi thỏa thuận sang tên thửa đất này thì phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên trong hộ gia đình ông Tào D1 cũng như tất cả hàng thừa kế thứ nhất của ông Tào D1. Như vậy: “biên bản bàn giao” đề ngày 27/11/2006 (âm lịch) nhằm ngày 15/01/2007 chỉ có tính chất nội bộ, không được pháp luật thừa nhận.

[2.2] Yêu cầu chia đất hộ gia đình.

Tại thời điểm cân đối giao quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cụ Tào D1 thì hộ gia đình cụ Tào D1 gồm có 7 nhân khẩu nông nghiệp là Tào Dững, Đặng Thị T6, T, Tào N5, Tào Thị N3, Nguyễn Thị X và Tào Văn D. Hộ gia đình cụ Tào D1 được nhà nước cân đối giao quyền sử dụng 1.364m2 đất (trong đó có 200m2 đất ở) tại thửa đất số 940, tờ bản đồ số 9 phường H; 1.656 m2 đất (trong đó có 200m2 đất ở) tại thửa đất số 941, tờ bản đồ số 9 phường H; 648m2 đất màu tại thửa đất số 997B, tờ bản đồ số 9 phường H; 400m2 đất lúa tại thửa đất số 1260, tờ bản đồ số 9 phường H; 272m2 đất lúa tại thửa đất số 668A, tờ bản đồ số 9 phường H.

Đối với thửa đất số 940, tờ bản đồ số 9, diện tích 1.264m2 (loại đất ở và đất trồng cây lâu năm). Qua đo đạc lại thì diện tích thực tế của thửa đất là 1.444,3m2. Diện tích thửa đất có sự thay đổi, qua làm việc với UBND phường H và hộ dân liền kề thì ranh giới thửa đất không có sự thay đổi, hộ dân liền kề không có sự tranh chấp. Diện tích cũng như hiện trạng đất có sự thay đổi là do sai số đo đạc.

Đối với thửa đất số 941, tờ bản đồ số 9, diện tích 1.656m2 (loại đất ở và đất trồng cây lâu năm). Qua đo đạc lại thì diện tích thực tế của thửa đất là 1.619,3m2. Diện tích của thửa đất có sự thay đổi, qua làm việc với UBND phường H và hộ dân liền kề thì ranh giới thửa đất có sự thay đổi, hộ dân liền kề không có sự tranh chấp, phần diện tích 4,4m2 thuộc quyền sử dụng của hộ cụ Tào D1; phần diện tích 32,9m2, qua làm việc với UBND phường H thì diện tích này trước đây trên đất có 02 ngôi mộ đã được hốt cốt từ trước, trên phần đất này không tiếp giáp với đất cấp cho người khác mà là giáp đường đi. Gia đình ông Tào D1 đã xây dựng hàng rào cố định, trồng dừa đã hơn 40 năm nên phần đất này sẽ được công nhận sau khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế đối với nhà nước theo quy định của pháp luật. Như vậy, diện tích thực tế của thửa 941, tờ bản đồ số 9 phường H còn lại là 1619,3m2 – 32,9m2 = 1.586,4m2.

Như vậy, vợ chồng cụ Tào D1 nhận được 400m2 đất ở từ 02 thửa đất số 940 và 941 tờ bản đồ số 9 và phần diện tích đất được cân đối giao quyền theo Nghị định số 64/CP của Chính phủ như các thành viên khác trong hộ gia đình, mỗi thành viên được nhận ((1.586,4m2 + 1.444,3m2) – 400m2 đất ở) : 7 nhân khẩu nông nghiệp: = 375,8m2 đất trồng cây lâu năm.

[2.3] Đối với yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật của vợ chồng cụ Tào D1, Đặng Thị T6. Cụ Tào D1 chết ngày 29/6/2003, cụ Đặng Thị T6 chết ngày 11/9/2016 theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 thì yêu cầu chia thừa kế của ông Tào T còn trong thời hiệu khởi kiện.

Từ phân tích ở mục [2.2] thì di sản của vợ chồng cụ Tào D1, Đặng Thị T6 được xác định như sau:

Di sản của cụ Tào D1 để lại bao gồm: 200m2 đất ở + 375,8m2 đất trồng cây lâu năm tại 02 thửa đất số 940 và 941 tờ bản đồ số 9 phường H.

Cụ Tào D1 có 06 người con nên hàng thừa kế thứ nhất của ông Tào D1 gồm 07 kỷ phần. Như vậy mỗi kỷ phần của cụ Tào D1 được nhận: 200m2 đất ở :

7 kỷ phần + 375,8m2 đất trồng cây lâu năm : 7 kỷ phần = 28,5m2 đất ở + 53,6m2 đất trồng cây lâu năm.

Đối với di sản của ông Tào S: Tuy không có yêu cầu phân chia di sản nhưng vì ông Tào S chết vào ngày 20/10/2008 là sau thời điểm mở thừa kế của cụ Tào D1 nhưng trước thời điểm mở thừa kế của cụ Đặng Thị T6 ngày 11/9/2016. Do đó, ông Tào S được nhận thừa kế từ cụ Tào D1 là 28,5m2 đất ở và 53,6m2 đất trồng cây lâu năm. Khi ông Tào S chết không để lại di chúc đối phần di sản này nên phần di sản ông Tào s nhận được từ cụ Tào D1 được chia cho hàng thừa kế thứ nhất của ông, hàng thừa kế thứ nhất của ông Tào S gồm vợ, 4 người con và mẹ là cụ Đặng Thị T6. Như vậy, mỗi kỷ phần được nhận 28,5m2 đất ở : 6 = 4,75m2 đất ở + 53,6m2 đất trồng cây lâu năm : 6 = 8,9m2 đất trồng cây lâu năm.

Di sản của cụ Đặng Thị T6 để lại gồm 200m2 đất ở + 375,8m2 đất trồng cây lâu năm tại 02 thửa đất số 940 và 941 tờ bản đồ số 9 phường H + kỷ phần từ cụ Tào D1 và kỷ phần từ ông Tào S. Như vậy di sản của cụ Đặng Thị T6 để lại là: (200m2 đất ở + 28,5m2 đất ở + 4,75m2 đất ở) + (375,8m2 đất trồng cây lâu năm + 53,6m2 đất trồng cây lâu năm + 8,9m2 đất trồng cây lâu năm) = 233,25m2 đất ở + 438,3m2 đất trồng cây lâu năm. Cụ Đặng Thị T6 có 06 người con trong đó ông Tào S chết trước cụ Đặng Thị T6, ông Tào S có vợ con nên những người này được hưởng thừa kế thế vị của ông Tào S. Như vậy, mỗi kỷ phần của cụ Đặng Thị T6 được nhận: 233,25m2 đất ở : 6 kỷ phần = 38,8m2 đất ở + 438,3m2 đất trồng cây lâu năm : 6 kỷ phần = 73 m2 đất trồng cây lâu năm.

Từ những phân tích ở trên thì ông Tào N5, Tào T nhận được phần đất từ thừa kế của hai cụ Tào D1 và Đặng Thị T6 + phần đất cân đối giao quyền theo Nghị định số 64 + kỷ phần của ông Tào T3, bà Tào Thị N3 từ chối nhận giao cho ông Tào N5 và ông Tào T. Ngoài ra ông Tào N5 còn nhận được phần diện tích đất mà bà X và ông D là vợ và con của ông được cân đối theo Nghị định 64 giao lại cho ông.

Cụ thể: ông Tào N5 nhận được (375,8m2 đất trồng cây lâu năm/nhân khẩu x 3nhân khẩu) + (28,5m2 đất ở + 53,6m2 đất trồng cây lâu năm) + (38,8m2 đất ở + 73 m2) = 67,5m2 đất ở + 1254 đất trồng cây lâu năm và phần chia của ông Tào T4 + bà Tào Thị N3 từ chối nhận giao cho ông Tào T + Tào Ngọc.

Ông Tào T nhận được 375,8m2 đất trồng cây lâu năm + (28,5m2 đất ở + 53,6m2 đất trồng cây lâu năm) + (38,8m2 đất ở + 73 m2) = 67,5m2 đất ở + 502,4m2 đất trồng cây lâu năm và phần chia của ông Tào T4 + bà Tào Thị N3 từ chối nhận giao cho ông Tào T + Tào Ngọc.

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa ông Tào T và ông Tào T4 là chia chung cho 2 ông một phần đất có nhà tại thửa đất số 941, tờ bản đồ số 9 phường H để hai ông lo hương khói cho ông bà và thối lại giá trị nhà cho bà Trần Thị Tuyết .

Ghi nhận sự thỏa thuận thống nhất giữa ông Tào T4, Tào N5 và Tào T là không thối lại giá trị cho nhau nếu nhận chênh lệch đối phần mình được chia và ai nhận phần đất nào thì được quyền sở hữu tài sản trên đất đó.

Phần của ông Tào S: Ghi nhận sự thống nhất giữa vợ và các con ông Tào S là giao hết phần di sản mà ông Tào S được nhận cho bà Trần Thị Tuyết t quyền sở hữu, sử dụng. Ông Tào S được nhận là di sản của cụ Tào D1 để lại và thừa kế thế vị từ di sản của cụ Đặng Thị T6. Cụ thể (28,5m2 đất ở + 53,6m2 đất trồng cây lâu năm) – (4,75m2 đất ở + 8,9m2 đất trồng cây lâu năm) + (38,8m2 đất ở + 73 m2 đất trồng cây lâu năm) = 62,55m2 đất ở + 117,7m2 đất trồng cây lâu năm.

[2.4] Cách phân chia di sản thửa kế theo pháp luật và phân chia tài sản chung hộ gia đình.

Ông Tào T4, bà Tào Thị N3 từ chối nhận nhận di sản mà giao lại cho hai ông Tào N5, Tào T. Bà Nguyễn Thị X, ông Tào Văn D tự nguyện nhập phần cân đối giao quyền sử dụng đất theo Nghị định số 64/CP của minh cho ông Tào N5 nên ghi nhận sự tự nguyện này.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa các bên đương sự đều thống nhất phân chia các thửa đất số 997B, 668A, 1260, và 940 cùng tờ bản đồ số 9 phường H cụ thể như sau:

lúa.

- Giao cho ông Tào Ngọc t1 đất 997B tờ bản đồ số 9 phường H đất màu.

- Giao cho bà Tào Thị N3 thửa đất 668A tờ bản đồ số 9 phường H loại đất - Giao cho ông Tào T thửa đất 1260 tờ bản đồ số 9 phường H loại đất lúa. Đối với thửa đất số 940, tờ bản đồ số 09 (bản đồ 1997) phường H:

- Giao cho ông Tào Ngọc t2 quyền sử dụng phần diện tích đất có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: thửa đất số 604 dài 20,49m; 9,83m - Tây giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào Trung d: 34,74m - Nam giáp: thửa 631, 632 dài: 2,73m; 0,38m; 2,44m; 10,35m; 0,92m;

- Bắc giáp: đường bê tông dài 24,04m Diện tích: 805,5m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 705m2 đất trồng cây lâu năm) cùng toàn bộ tài sản có trên đất.

Giao cho ông Tào Trung t3 quyền sử dụng phần diện tích đất có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào Ngọc d1: 34,74m - Tây giáp: đường bê tông dài: 4,77m; 2,49m; 25,05m - Nam giáp: thửa 632, 686 dài: 3m; 16,56m - Bắc giáp: đường bê tông dài 11,59m; 6,15m Diện tích: 638,8m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 538,8m2 đất trồng cây lâu năm) cùng toàn bộ tài sản có trên đất.

Do đó, ghi nhận sự thỏa thuận này của các đương sự. Đối với thửa đất số: 941, tờ bản đồ số 9 phường H:

Trên thửa đất có một ngôi nhà do bà Trần Thị T2 xây dựng. Vị trí xây dựng nằm ở trung tâm thửa đất, ngôi nhà này vợ chồng bà T2 xây dựng để thờ cúng ông bà. Tuy nhiên sau khi xây dựng thì ông Tào S chồng bà T2 chết, từ đó đến nay bà T2 sống trên ngôi nhà này nhưng không sửa sang nay đã xuống cấp, theo biên bản định giá ngày 10/11/2023 thì chất lượng ngôi nhà chỉ còn 40%.

Tại thời điểm cân đối giao quyền sử dụng đất theo Nghị định số 64/CP của Chính phủ thì hộ ông Tào S, bà Trần Thị T2 được nhà nước cân đối giao quyền sử dụng 4 thửa đất trong đó có thửa 1318, tờ bản đồ số 9 (bản đồ 1997) phường H diện tích 1.520m2 trong đó có 200m2 đất ở thửa đất này liền kề với thửa đất số 941 mà bà T2 xây dựng nhà ở. Sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất trên thì hộ gia đình bà Trần Thị Tuyết l thủ tục sang tên cho con của mình là Tào Văn N1 toàn bộ thửa đất trên và hiện tại Tào Văn N1 đang sử dụng thửa đất 1318, tờ bản đồ số 09 phường H.

Như vậy có thể thấy rằng bà Trần Thị T2 đã được cấp đất ở, có nhà ở ổn định, liền kề với thửa đất số 941 nên nhu cầu về chỗ ở là không bức thiết. Theo như phân tích ở trên thì kỷ phần ông Tào S nhận được là 62,55m2 đất ở + 117,7m2 đất trồng cây lâu năm. Theo quy định của pháp luật thì phần diện tích đất trồng cây lâu năm này không đủ diện tích để tách thửa. Diện tích đất trồng cây lâu năm tối thiểu để được tách thửa là 300m2.

Theo biên bản định giá ngày 10/11/2023 thì ngôi nhà do bà Trần Thị T2 xây dựng có giá 56.977.200 đồng; 1m2 đất ở có giá: 2.000.000 đồng; 1m2 đất trồng cây lâu năm có giá: 1.000.000 đồng. Diện tích đất trồng cây lâu năm còn thiếu để tách thửa khoảng 182m2 tương đương số tiền 182.000.000 đồng.

Từ đó, thấy rằng giao cho bà Trần Thị Tuyết p đất liền kề với thửa đất số 1318, tờ bản đồ số 9 phường H để gia đình bà liên canh, liên cư trong việc sử dụng đất là hợp lý. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Tào T3, Tào T là được nhận phần đất có nhà của bà Trần Thị T2 để sửa sang thờ cúng ông bà, giao cho bà Trần Thị Tuyết p đất liền kề với thửa đất 1318, tờ bản đồ số 9 phường H đủ diện tích tách thửa mà không yêu cầu nhận phần thối giá trị chênh lệch.

Từ những phân tích trên có thể thấy rằng:

Giao cho ông Tào Ngọc t2 quyền sử dụng phần đất có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: thửa đất số 530, phần đất chưa được giao quyền sử dụng (có diện tích 32,9m2) dài: 41,01m 6,69m - Tây giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào T, Tào T6 dài: 52,52m - Nam giáp: đường bê tông dài: 4,2m; 2,49m; 3,9m; 2,93m; 2,98m; 2,18m - Bắc giáp: thửa 528 dài: 8,2m Diện tích: 610m2 (trong đó có 50m2 đất ở và 560m2 đất trồng cây lâu năm và 32,9m2 đất chưa được nhà nước công nhận) cùng tài sản có trên đất.

Phần diện tích 32,9m2 được công nhận cho ông Tào N5 khi ông Tào N5 làm thủ tục để được công nhận diện tích đất trên theo quy định của pháp luật.

Giao cho ông Tào T3 + Tào Trung trọn quyền sử dụng có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào Ngọc d1 52,52m - Tây giáp: phần đất còn lại giao cho bà Trần Thị Tuyết d2: 48,54m - Nam giáp: đường bê tông dài: 16m - Bắc giáp: thửa 528, 564 dài: 9,02m Diện tích: 613,5m2 (trong đó có 90m2 đất ở và 523,5m2 đất trồng cây lâu năm cùng tài sản có trên đất (bao gồm ngôi nhà của bà Trần Thị T2).

Giao cho bà Trần Thị Tuyết t quyền sử dụng có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào T3 + Tào Trung dài 48,54m - Tây giáp: thửa 602 dài: 7,86m; 18,93m; 8,53m; 13,89m - Nam giáp: đường bê tông dài: 3,53m; 7,46m - Bắc giáp: thửa 564 dài: 7,71m; 0,72m Diện tích: 362,9m2 (trong đó có 60m2 đất ở và 302,9m2 đất trồng cây lâu năm) cùng tài sản có trên đất.

(có sơ đồ chi tiết kèm theo).

[3] Về chi phí định giá, xem xét thẩm định tại chỗ. Ghi nhận sự tự nguyện chịu của nguyên đơn. Nguyên đơn đã nộp đủ.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trần Thị T2, ông Tào T3 là người cao tuổi nên được miễn.

Bà Tào Thị N3 phải nộp: 44.340.800 đồng x 5% = 2.217.000 đồng.

Giá trị tài sản mà ông Tào N5 được chia là: 83.723.600 đồng (thửa 997B, tờ bản đồ số 9) + 150m2 đất ở x 2.000.000 đồng/m2 + 1.265,5m2+ đất trồng cây lâu năm x 1.000.000 đồng/m2 = 1.640.223.600 đồng. Số tiền án phí ông Tào N5 phải nộp là: 61.206.700 đồng.

Giá trị tài sản mà ông Tào T được chia là: 70.078.000 đồng (thửa 1260, tờ bản đồ số 9) + 738.800.000 đồng (thửa 940, tờ bản đồ số 9) + 795.777.000 đồng : 2 (thửa 941, tờ bản đồ số 9 chung với ông Tào T3) = 1.206.766.500 đồng. Số tiền án phí ông T phải nộp là: 48.202.900 đồng (tròn số).

Giá được tính theo biên bản định giá ngày 10/11/2023.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và đúng quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Vì những lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 227, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Căn cứ các Điều 102, 212, 219, 609, 611,612, 613, 620, 623, 649, 650, 651, 652, 660 Bộ luật Dân sự 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tào T về việc chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình.

1. 1 Giao cho ông Tào Ngọc q sử dụng 648m2 đất tại thửa đất 997B tờ bản đồ số 9 phường H đất màu.

1.2 Giao cho bà Tào Thị N3 quyền sử dụng 272m2 đất tại thửa đất 668A tờ bản đồ số 9 phường H loại đất lúa.

1.3 Giao cho ông Tào T quyền sử dụng 400m2 đất tại thửa đất 1260 tờ bản đồ số 9 phường H loại đất lúa.

1.4 Đối với thửa đất số: 940, tờ bản đồ số 9 phường H.

Giao cho ông Tào Ngọc t2 quyền sử dụng có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: thửa đất số 604 dài 20,49m; 9,83m - Tây giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào Trung d: 34,74m - Nam giáp: thửa 631, 632 dài: 2,73m; 0,38m; 2,44m; 10,35m; 0,92m;

- Bắc giáp: đường bê tông dài 24,04m Diện tích: 805,5m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 705m2 đất trồng cây lâu năm) cùng toàn bộ tài sản có trên đất.

Giao cho ông Tào Trung t3 quyền sử dụng có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào Ngọc d1: 34,74m - Tây giáp: đường bê tông dài: 4,77m; 2,49m; 25,05m - Nam giáp: thửa 632, 686 dài: 3m; 16,56m - Bắc giáp: đường bê tông dài 11,59m; 6,15m Diện tích: 638,8m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 538,8m2 đất trồng cây lâu năm) cùng toàn bộ tài sản có trên đất.

(có sơ đồ chi tiết thửa đất kèm theo) 1.5 Đối với thửa đất số: 941, tờ bản đồ số 9 phường H.

Giao cho ông Tào Ngọc t2 quyền sử dụng có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: thửa đất số 530, phần đất chưa được giao quyền sử dụng (có diện tích 32,9m2) dài: 41,01m 6,69m - Tây giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào T, Tào T6 dài: 52,52m - Nam giáp: đường bê tông dài: 4,2m; 2,49m; 3,9m; 2,93m; 2,98m; 2,18m - Bắc giáp: thửa 528 dài: 8,2m Diện tích: 610m2 (trong đó có 50m2 đất ở và 560m2 đất trồng cây lâu năm và 32,9m2 đất chưa được nhà nước công nhận) cùng tài sản có trên đất.

Giao cho ông Tào T3 + Tào Trung trọn quyền sử dụng có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào Ngọc d1 52,52m - Tây giáp: phần đất còn lại giao cho bà Trần Thị Tuyết d2: 48,54m - Nam giáp: đường bê tông dài: 16m - Bắc giáp: thửa 528, 564 dài: 9,02m Diện tích: 613,5m2 (trong đó có 90m2 đất ở và 523,5m2 đất trồng cây lâu năm cùng tài sản có trên đất (bao gồm ngôi nhà của bà Trần Thị T2).

Giao cho bà Trần Thị Tuyết t quyền sử dụng có kích thước và giới cận như sau:

- Đông giáp: phần đất còn lại giao cho ông Tào T3 + Tào Trung dài 48,54m - Tây giáp: thửa 602 dài: 7,86m; 18,93m; 8,53m; 13,89m - Nam giáp: đường bê tông dài: 3,53m; 7,46m - Bắc giáp: thửa 564 dài: 7,71m; 0,72m Diện tích: 362,9m2 (trong đó có 60m2 đất ở và 302,9m2 đất trồng cây lâu năm) cùng tài sản có trên đất.

(có sơ đồ chi tiết thửa đất kèm theo) Phần diện tích 32,9m2 được công nhận cho ông Tào N5 khi ông Tào N5 làm thủ tục để được công nhận diện tích đất trên theo quy định của pháp luật.

Ghi nhận sự tự nguyện của các ông bà Tào N5, T, T, không thối lại giá trị chênh lệch phần tài sản mình được nhận cho nhau.

2. Về chi phí định giá, xem xét thẩm định tại chỗ: Nguyên đơn thỏa thuận nộp, nguyên đơn đã nộp đủ.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Trần Thị T2, ông Tào T3 là người cao tuổi nên được miễn.

Bà Tào Thị N3 phải nộp: 2.217.000 đồng sung công nhà nước.

Ông Tào N5 phải nộp: 61.206.700 đồng (tròn số) sung công nhà nước.

Ông Tào T phải nộp: 48.202.900 đồng (tròn số) sung công nhà nước. Ông Tào T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000235 ngày 25 tháng 10 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoài Nhơn nên còn phải nộp: 47.902.900 đồng.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2, Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 392/2023/DS-ST về tranh chấp yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật và chia tài sản chung hộ gia đình

Số hiệu:392/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;