Bản án 39/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐT, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 39/2021/HSST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

 Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2021/TLST - HS ngày 30 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:38/2021/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tùng D, tên gọi khác: không; sinh ngày 21/10/1998, tại thành phố MC, tỉnh Quảng Ninh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn ĐM, xã AS, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh; chỗ ở hiện nay: Thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh;giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị Đ; vợ: Đào Thị H (đã ly hôn); con: Có hai con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Chưa có; nhân thân: Ngày 27/5/2019, có hành vi cất giấu công cụ lao động nhằm mục đích cố ý gây thương tích cho người khác bị Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000đ. (D đã nộp số tiền trên vào ngày 11/7/2019); bị cáo bị bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 02/01/2021, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã ĐT; có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

- Anh Bùi Quốc D, sinh năm 1997; Địa chỉ: Thôn ĐS, xã AS, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt

 - Anh Đỗ Văn Th, sinh năm 2005; Địa chỉ: Khu MC 2, phường HĐ, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt

Người đại diện hợp pháp: Ông Đỗ Văn Kh và bà Nguyễn Thị H; Cùng địa chỉ: Khu MC 2, phường HĐ, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt

- Anh Nùng Văn H, sinh năm 1997; Địa chỉ: Tổ 5, phường SĐ, thị xã ML, tỉnh Điện Biên. Có mặt

- Chị Nùng Thúy H, sinh ngày 30/6/2003; Địa chỉ: Tổ 5, phường SĐ, thị xã ML, tỉnh Điện Biên. Có mặt

Người đại diện hợp pháp: Ông Nùng Văn Th và bà Hoàng Thị Th; Cùng địa chỉ: Tổ 5, phường SĐ, thị xã ML, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt

- Chị Nguyễn Thị Yến Nh, sinh năm 2005; Địa chỉ: Thôn 3, xã GL, huyện LH, tỉnh LĐ. Có mặt

Người đại diện hợp pháp: Bà Hồ Thị Ch; Địa chỉ: Thôn 3, xã GL, huyện LH, tỉnh LĐ. Vắng mặt

- Chị Khoành Thanh M, sinh năm 2004; Địa chỉ: Bản H, xã NL, thị xã ML, tỉnh ĐB. Có mặt

Người đại diện hợp pháp: Bà Lù Thị C; Địa chỉ: Bản H, xã NL, thị xã ML, tỉnh ĐB. Vắng mặt

 - Chị Lò Thị L, sinh năm 2004; Địa chỉ: Bản NN, xã CC, huyện SH, tỉnh Lai Châu. Có mặt

Người đại diện hợp pháp: Ông Vàng Văn X và bà Lò Thị L; Cùng địa chỉ: Bản NN, xã CC, huyện SH, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt

- Chị Lò Thị Tr, sinh năm 2004; Địa chỉ: Bản NN, xã CC, huyện SH, tỉnh Lai Châu. Có mặt

 Người đại diện hợp pháp: Ông Lò Văn H và bà Lường Thị Í; Cùng địa chỉ: Bản NN, xã CC, huyện SH, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt

 * Người chứng kiến:

- Anh Lưu Văn H, sinh năm 1975; Địa chỉ: Thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt

- Ông Phạm Văn M, sinh năm 1961; Địa chỉ: Thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt

- Ông Nguyễn Đình Th, sinh năm 1969; Địa chỉ Thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 ngày 02/01/2021 Công an thị xã ĐT tiến hành kiểm tra hành chính nơi ở của Nguyễn Tùng D tại số nhà 414, thuộc Thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Tại thời điểm kiểm tra trong phòng thuê trọ của Nguyễn Tùng D có 09 (chín) người gồm: (04 (bốn) nam; 05 (năm) nữ), cụ thể: Nguyễn Tùng D; anh Nùng Văn H, chị Nùng Thúy H, chị Khoàng Thanh M, chị Lò Thị Tr, chị Lò Thị L, anh Bùi Quốc D, anh Đỗ Văn Th và chị Nguyễn Thị Yến Nh, đang ngồi chơi và nói chuyện. Quá trình kiểm tra, phát hiện thu giữ trên mặt két sắt đặt ở trong phòng, góc bên phải cửa chính đi vào phòng trọ ở của D 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; thu giữ tại góc bên phải bàn thờ trong phòng trọ ở của D 01 (một) túi hình trụ màu vàng bên trong có 05 (năm) túi nilon màu trắng (trong các túi này đều chứa chất tinh thể màu trắng). Ngoài ra, còn thu giữ dưới nền nhà phòng trọ ở 01 (một) chiếc cân điện tử.

Tại Bản kết luận giám định số 240/KLGĐ ngày 07/01/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 06 (sáu) túi nilon (ký hiệu M1, M2, M3, M4, M5, M6) thu giữ của Nguyễn Tùng Dương gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine, có khối lượng lần lượt là 0,556 gam, 0,339 gam, 0,375 gam, 0,347 gam, 0,475 gam, 0,522 gam (Tổng khối lượng 06 (sáu) túi có ma túy là 2,614 gam (hai phẩy sáu một bốn gam).

Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35; Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ Ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tùng D khai nhận: Do nghiện chất ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 02/01/2021, một mình D đi sang khu vực thuộc Gốc Đa thuộc phường MT, thị xã KM, tỉnh Hải Dương. Tại đây, D gặp và thỏa thuận mua của một người đàn ông làm nghề lái xe mô tô chở khách (không rõ lai lịch, địa chỉ) 5.000.000đ (năm triệu đồng) ma túy loại Ketamine. Sau khi nhận tiền người đàn ông này đưa lại cho D 01(một) túi màu vàng bên trong có 06 (sáu) túi nilon chứa ma túy, D cầm rồi mang về phòng trọ nơi D thuê để ở cất giấu tại góc bàn thờ. Đến khoảng 17 giờ 30 cùng ngày D lấy ra 01 (một) túi nilon ma túy để ở mặt két sắt trong phòng để chuẩn bị sử dụng thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt và thu giữ toàn bộ vật chứng. Ngoài ra, chiếc cân điện tử có chữ Kitchen scale D khai do đi Lạng Sơn chơi thấy hay nên mua về dùng, bị cáo thấy không còn nhu cầu sử dụng nên yêu cầu tịch thu tiêu hủy.

Những người làm chứng chị Nùng Thúy H và chị Nguyễn Thị Yến Nh có lời khai: Chiều ngày 02/01/2021, các chị đang ở nhà trọ của Dương tại Thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT thì lực lượng Công an đến kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ các chất tinh thể màu trắng được cất giấu tại phòng trọ và 01 chiếc cân điện tử. D khai chất tinh thể màu trắng là ma túy, mục đích mua về để sử dụng, còn chiếc cân do đi chơi D thấy hay nên mua về sử dụng hàng ngày. Việc D cất giấu ma túy ở phòng trọ, các chị không biết và cũng chưa sử dụng ma túy bao giờ.

Người chứng kiến ông Lưu Văn H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 02/01/2021, ông và anh Phạm Văn M, anh Nguyễn Đình Th được Cơ quan công an mời đến ngôi nhà ông đang cho anh Nguyễn Tùng D thuê để chứng kiến việc lực lượng Công an kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra có 09 (chín) người, gồm 05 (năm) nữ và 04 (bốn) nam, là những người làm cho D và bạn D đang ở tại nhà ông. Tại thời điểm kiểm tra, lực lượng công an thu giữ các túi chứa chất tinh thể màu trắng, D khai là ma túy mua về để sử dụng. Ngoài ra, còn thu giữ dưới nền nhà phòng trọ sát két sắt 01 (một) chiếc cân điện tử. Ông cho D thuê nhà để ở, không biết việc D sử dụng ma túy, mua ma túy về sử dụng.

Tại Cáo trạng số: 41/CT- VKS - ĐT ngày 29-3-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã ĐT truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã ĐT tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 02/01/2021.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 240/KLGĐ ngày 07/01/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, được niêm phong bằng các dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và các chữ ký ghi tên: Vũ Việt Ph, Lưu Văn P và 01 (một) cân điện tử có chữ Kitchen scale.

Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã ĐT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã ĐT, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người chứng kiến, với Biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã ĐT, lập hồi 17 giờ 30 phút ngày 02/01/2021 tại thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, với vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 02/01/2021, tại số nhà 414 thuộc thôn BM 1, xã BD, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Tùng D có hành vi tàng trữ trái phép 2,614 gam (hai phẩy sáu một bốn gam) chất ma túy, loại Ketamine, nhằm mục đích sử dụng, thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã ĐT truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người trưởng thành, có khả năng nhận thức được tác hại của ma túy, biết hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội.

[3.2] Về nhân thân: Ngày 27/5/2019, bị cáo có hành vi cất giấu công cụ lao động nhằm mục đích cố ý gây thương tích cho người khác bị Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000đ. (D đã nộp số tiền trên vào ngày 11/7/2019).

[3.3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố là ông Nguyễn Văn Th được Chủ tich nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên, căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có tài sản riêng, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Số ma túy hoàn lại sau giám định, xét thấy là vật có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ và 01 (một) cân điện tử bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[5] Những tình tiết khác trong vụ án:

Đối với người đàn ông bán ma túy cho D, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ. Nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với các anh Bùi Quốc D, Đỗ Văn Th, Nùng Văn H; các chị Nùng Thị H, Nguyễn Thị Yến Nh, Lò Thị Tr, Khoàng Thanh M và Lò Thị N ở cùng nhà với Nguyễn Tùng D, cũng như ông Lưu Văn H cho Nguyễn Tùng D thuê nhà, nhưng không biết việc D cất giấu ma túy trong nhà để sử dụng, nên không đề cập xử lý.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm c khoản 1 Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tùng D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tùng D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 02/01/2021.

3. Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định số 240/KLGĐ ngày 07/01/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, được niêm phong bằng các dấu tròn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và các chữ ký ghi tên: Vũ Việt Ph, Lưu Văn P và 01 (một) cân điện tử có chữ Kitchen scale.

(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng số 67 ngày 29 tháng 3 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã ĐT và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tùng D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 39/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:39/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;