Bản án 31/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2021/TLST - HS ngày 27 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:

TÔ VĂN D, tên gọi khác: Không; sinh ngày 02/6/1989 tại huyện C, tỉnh T; Nơi cư trú: Thôn B, xã K, huyện C, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn T (đã chết) và bà Hoàng Thị K; có vợ là Đinh Thị H và 01 con.

Tiền án: Bản án số 61/2016/HSST ngày 29/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/01/2019.

Tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 05/01/2021, Tô Văn D một mình đi nhờ xe mô tô của người đi đường không quen biết đến huyện Đ, tỉnh N mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Đến trung tâm huyện Đ, D xuống xe đi bộ khoảng 50m, gặp một người đàn ông không quen biết trông giống người nghiện ma túy, D hỏi và mua được 01 gói Heroine, bên ngoài gói bằng ni lon màu hồng, tiếp theo là giấy trắng có dòng kẻ, có chữ trong cùng là Heroine vón cục màu trắng với số tiền 500.000 đồng. Mua được Heroine D đi vào khu vực vắng người lấy gói Heroine vừa mua được san ra một ít sử dụng hết bằng cách đốt hít vào cơ thể, số còn lại D gói lại như cũ cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc mục đích để sử dụng, sau đó đi nhờ xe mô tô của người đi đường không quen biết về nhà.

Khoảng 16 giờ cùng ngày về đến khu vực thôn C, xã K, D xuống xe đi bộ về nhà, khi đi được khoảng 200m thì gặp tổ công tác Công an huyện C phối hợp với Công an xã K đang làm việc, tổ công tác nghi D tàng trữ trái phép chất ma túy, mời D về Ủy ban nhân dân xã K để làm việc. Tại đây D tự giác giao nộp gói Heroine đã cất giấu ở trên. Tổ công tác lập biên bắt người phạm tội quả tang, niêm phong gói Heroine D giao nộp để giám định.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Tô Văn D ngày 05/01/2021, kết quả: (+) Dương tính với chất ma túy.

Kết luận giám định số 102/GĐKTHS ngày 08/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy. Loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,625g (không phẩy sáu hai lăm gam).

Cáo trạng số 23/CT-VKSCH ngày 25/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang truy tố Tô Văn D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Tô Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính:Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52;Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Tô Văn D từ15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/01/2021.

Hình phạt bổ sung phạt tiền: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, là dân dộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình khó khăn không có tài sản, tàng trữ ma túy mục đích sử dụng cho bản thân không có vụ lợi, nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với số ma túy thu giữ trong 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, có chữ ký xác nhận của Tô Văn D, thành phần tham gia niêm phong và 05 (Năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi “Tang vật vụ: Tô Văn D, giám định ngày 06/01/2021”.

Đối với người bán ma túy cho Tô Văn D, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ xử lý trong vụ án.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tô Văn D, Công an huyện Chiêm Hóa đã xử phạt vi phạm hành chính, nên không đề nghị xem xét.

Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Tô Văn D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Xác định đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, không có ý kiến tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 05/01/2021 tại thôn C, xã K, huyện C, tỉnh T, Tô Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,625 g (Không phẩy sáu hai năm gam) Heroine, mục đích để sử dụng, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ trái phép trong phạm vi khối lượng ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (từ 0,1 gam đến 05 gam). Đủ cơ sở xác định bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Ma Túy là chất gây nghiện, có tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân dẫn đến các hành vi phạm tội, sa sút về kinh tế, gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình..., nhưng bị cáo đã đi ngược lại quy định Nhà nước, thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vi phạm pháp luật, gây mất ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[3] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, do đó phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 29/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xử phạt 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 27/01/2019, chưa được xóa án tích do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "tái phạm" theo đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", "Là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn "là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm chung; nội dung buộc tội, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cho thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, do đó cần áp dụng mức án tương xứng với mức độ thực hiện hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời làm gương phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về vật chứng vụ án: Số ma túy thu giữ của bị cáo Tô Văn D xét thấy đây là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Tô Văn D, quá trình điều tra do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ xử lý trong vụ án. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tô Văn D, Công an huyện C, tỉnh T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên không xem xét, xử lý.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích vụ lợi, không có tài sản riêng có giá trị, hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo. Không thực hiện tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc cấm hành nghề làm công việc nhất định đối với bị cáo.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249;điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106, 135, 136, 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Tô Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Tô Văn D, 01 năm 05 tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/01/2021.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Tô Văn D. Vật chứng là 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, có chữ ký xác nhận của Tô Văn D, thành phần tham gia niêm phong và 05 (Năm) hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Mặt trước ghi “Tang vật vụ: Tô Văn D, giám định ngày 06/01/2021”. Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 29 tháng 3 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa.

Tô Văn D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 29/4/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 31/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;