TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 39/2021/HSST NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 27/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2021/HSST ngày 08/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXX-HS ngày 14/01/2021 đối với các bị cáo:
1. Lâm Đ N, sinh năm 1960; HKTT: Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lâm Đ Q (đã chết) và bà Nguyễn T M, sinh năm 1933 (đã chết); Gia đình bị cáo có 06 anh em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình; Vợ là Nguyễn T S, sinh năm 1960; Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 1982, con nhỏ sinh năm 1986.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/9/2020 đến ngày 11/9/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay (có mặt tại phiên tòa).
2. Nguyễn H L, sinh năm 1968; HKTT: Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn H L, sinh năm 1942 và bà Nguyễn T C, sinh năm 1943; Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ là Lại T M, sinh năm 1969; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 2000.
Nhân thân: Tháng 3/1988 nhập ngũ, đóng quân tại Văn phòng tư lệnh quân đoàn 4, đến tháng 10/1990 xuất ngũ về địa phương.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/9/2020 đến ngày 11/9/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay (có mặt tại phiên tòa).
3. Nguyễn T Đ, sinh năm 1946; HKTT: Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 03/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn H Đ (đã chết) và bà Nguyễn T M (đã chết); Gia đình bị cáo có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ bẩy trong gia đình; Chồng là Nguyễn C Ý, sinh năm 1943 (đã chết); Bị cáo có 04 con, con lớn sinh năm 1969, con nhỏ sinh năm 1979.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/9/2020 đến nay (có mặt tại phiên tòa).
4. Nguyễn T T, Sinh năm 1967; HKTT: Thôn Đ L, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn T D, sinh năm 1931 và bà Nguyễn T T (đã chết); Gia đình bị cáo có 06 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Chồng là Nguyễn T K, sinh năm 1966; Bị cáo có 05 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 2016.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/9/2020 đến nay (có mặt tại phiên tòa).
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Nguyễn T H, sinh năm 1969; HKTT: Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).
+ Anh Nguyễn Công Cương, sinh năm 1964; HKTT: Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).
+ Chị Nguyễn Thị Thái, sinh năm 1984; HKTT: Thôn Đ L, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).
+ Anh Nguyễn Tiến Thỏa, sinh năm 1966; HKTT: Thôn Đ L, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do hám lợi nên từ khoảng đầu tháng 9 năm 2020, Lâm Đ N, sinh năm 1960, có HKTT ở thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh (hiện Đng cư trú tại thôn Đ, xã H S huyện T D, tỉnh Bắc Ninh) đã có hành vi tổ chức đánh bạc bằng hình thức nhận các bảng cáp đề của các thư ký chuyển đến và trực tiếp bán số lô, đề cho những người mua. Để T tiện cho việc nhận bảng cáp lô, đề, N sử dụng 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu trắng đen lắp simcard số 0962.869.863 và Iphone 6s plus màu xám lắp simcard số 0365.378.431 để làm phương tiện thực hiện việc tổ chức đánh bạc. N thỏa T với các thư ký đề, khi các thư ký đề chuyển bảng cáp cho N thì N sẽ trả 1.000 đồng/1 điểm lô, 15% tổng tiền đề, lô xiên và ba càng. Nếu người chơi trúng thưởng thì N sẽ thanh toán cho thư ký đề đồng thời trích trả tiền phần trăm hưởng lợi cho các thư ký theo thỏa T. Nếu người chơi không trúng thì N sẽ được hưởng số tiền đó. Hàng ngày, sau khi bán được các số lô đề cho người chơi, các thư ký đề sẽ tổng hợp vào một bảng cáp, sau đó nhắn tin SMS hoặc chụp ảnh bảng cáp gửi qua tin nhắn zalo cho N. Việc thanh toán giữa N và các thư ký đề sẽ được thực hiện vào ngày hôm sau.
Vào khoảng 18 giờ ngày 05/9/2020, khi N Đng ở nhà sử dụng điện thoại di động để nhận các số lô đề do các thư ký đề và người chơi trực tiếp gửi đến thì bị Cơ quan Công an huyện Tiên Du phối hợp với Công an xã Hoàn Sơn kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ:
- 04 (bốn) bảng cáp đề bằng tờ giấy khổ A4 ghi ngày 04/9/2020, một mặt giấy có 05 cột dọc đều ghi các số và chữ thể hiện việc mua bán số lô, đề.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiện Nokia 150 màu đen trắng lắp sim số 0962.869.863.
- 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu xám lắp sim số 0365.378.431.
- 01 (một) bút bi mực màu xanh.
- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: 4.040.000 đồng.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của N tại thôn Đông, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du thu giữ 300.000.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Quá trình điều tra xác định, Nguyễn H L, sinh năm 1968, Nguyễn T Đ, sinh năm 1946, Nguyễn T H, sinh năm 1969 cùng có HKTT ở thôn Đông, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và Nguyễn T T, sinh năm 1967 có HKTT ở Thôn Đ L, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh làm thư ký đề cho N. Nguyễn C C biết N bán số lô, đề nên đã mua số lô đề của N. Hàng ngày các thư ký đề sẽ bán số lô đề trực tiếp cho người chơi sau đó tổng hợp vào bảng cáp để gửi tin nhắn SMS hoặc chụp ảnh bảng cáp gửi qua tin nhắn zalo cho N. Qua kiểm tra tin nhắn trong 02 chiếc điện thoại di động của N xác định hành vi tổ chức đánh bạc và đánh bạc của N trong ngày 04/9/2020 và 05/9/2020 cụ thể như sau:
* Trong ngày 04/9/2020:
- Buổi chiều ngày 04/9/2020, Nguyễn H L bán số lô, đề cho những người chơi. Khi bán, L chỉ viết số lô, đề của người chơi ra bảng cáp tổng của mình, không viết ra bảng cáp con đưa cho người chơi. Sau đó L dùng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen lắp sim số 0385.113.388 nhắn tin SMS các số lô, đề L bán được trong ngày vào số máy 0962.869.836 của N. L không nhớ tên tuổi, địa chỉ cụ thể của nhưng người đã mua số lô, đề của mình.
Kết quả kiểm tra các số lô, đề L gửi cho N trong ngày 04/9/2020 xác định:
- Tổng số tiền đề ở giải đặc biệt là: 3.830.000 đồng - Tổng tiền đề ở giải nhất là: 15.000 đồng - Tổng số tiền lô là: 19.780.000 đồng - Tổng số tiền đề ba càng là: 240.000 đồng - Tổng tiền lô trúng thưởng là: 34.400.000 đồng Như vậy, tổng số tiền mua bán số lô, đề giữa L và N trong ngày 04/9/2020 là 58.265.000 đồng.
Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 04/9/2020 mở thưởng, L đã thanh toán tiền cho người chơi trúng thưởng, L và N chưa thanh toán tiền cho nhau.
- Ngày 04/9/2020 Nguyễn T Đ bán số lô đề cho những người chơi. Đ không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của những người đã mua số lô, đề của Đ. Các số lô, đề bán được Đ ghi vào một bảng cáp tổng. Sau đó chụp ảnh bảng cáp rồi sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng lắp sim số 0967.145.456 của Đ đăng nhập tài khoản zalo có tên “Kiều Loan” gửi bảng cáp đã chụp vào tài khoản zalo của N là “Lâm Đ N”.
Kết quả kiểm tra các số lô, đề Đ gửi cho N trong ngày 04/9/2020 xác định:
- Tổng số tiền đề ở giải đặc biệt là: 610.000 đồng - Tổng tiền đề ở giải nhất là: 30.000 đồng - Tổng số tiền lô là: 7.360.000 đồng - Tổng tiền lô trúng thưởng là: 7.600.000 đồng Như vậy, tổng số tiền mua bán lô, đề giữa Đ và N trong ngày 04/9/2020 là 15.600.000 đồng.
Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 04/9/2020 mở thưởng, Đ đã thanh toán tiền cho những người chơi trúng thưởng. Đ và N chưa thanh toán tiền với nhau.
- Ngày 04/9/2020 Nguyễn T T bán số lô đề cho những người chơi gồm Nguyễn Thị Thái, sinh năm 1984, Nguyễn Khắc Cần, sinh năm 1974 và Nguyễn Tiến Thỏa, sinh năm, 1967 cùng có HKTT ở Thôn Đ L, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh. Thái mua số lô 01 là 25 điểm tương ứng số tiền 575.000 đồng và đã trúng thưởng 2.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mua bán số lô giữa T và Thái là 2.575.000 đồng. Thái chưa trả tiền mua số lô, đề cho T, T chưa thanh toán tiền trúng thưởng cho Thái. Cần mua số lô 85, 08, 01 mỗi số là 25 điểm tương ứng số tiền 1.725.000 đồng, Cần trúng thưởng số lô 01 được số tiền 2.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mua bán số lô giữa T và Cần là 3.725.000 đồng, Cần đã thanh toán tiền mua số lô, đề cho T, T chưa thanh toán tiền trúng thưởng cho Cần. Thỏa mua số đề ở giải đặc biệt đầu 5 mỗi cặp số số 10.000 đồng, tương ứng số tiền 100.000 đồng, Thỏa đã thanh toán tiền cho T, Thỏa không trúng thưởng. Ngoài ra T còn bán số lô, đề cho một số người chơi nữa nhưng T không biết tên, tuổi, địa chỉ của họ ở đâu. Sau khi bán được các số lô đề T ghi các số lô đề vào một bảng cáp là tờ giấy A4 sau đó chụp ảnh gửi qua tin nhắn zalo của mình là “Tân Nguyễn” vào zalo của N là “Lâm Đ N”.
Kết quả kiểm tra các số lô, đề T bán được và gửi cho N trong ngày 04/9/2020 xác định:
- Tổng số tiền đề ở giải đặc biệt là: 781.000 đồng.
- Tổng tiền đề ở giải nhất là: 5.000 đồng.
- Tổng số tiền lô là: 4.485.000 đồng.
- Tổng số tiền bán lô xiên là: 32.000 đồng.
- Tổng tiền lô trúng thưởng là: 7.200.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền mua bán lô, đề giữa T và N trong ngày 04/9/2020 là 12.503.000 đồng.
Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 04/9/2020 mở thưởng, T đã thanh toán tiền trúng thưởng cho một số người chơi. T và N chưa thanh toán tiền với nhau.
- Ngày 04/9/2020 Nguyễn T H bán số lô đề cho người chơi. H không biết tên tuổi, địa chỉ của những người mua số lô, đề của H. Sau khi bán được số lô đề, H đã sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu trắng đen có số 0329.104.985 nhắn tin SMS các số lô, đề vào số điện thoại 0962.5869.863 của N.
Kết quả kiểm tra các số lô, đề H bán được và gửi cho N trong ngày 04/9/2020 xác định:
- Tổng số tiền đề ở giải đặc biệt là: 470.000 đồng.
- Tổng số tiền lô là: 1.035.000 đồng.
- Tổng tiền lô trúng thưởng là: 2.000.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền mua bán lô, đề giữa H và N trong ngày 04/9/2020 là 3.505.000 đồng.
Sau khi có kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 04/9/2020 mở thưởng, H đã thanh toán tiền cho những người chơi trúng thưởng. H và N chưa thanh toán tiền với nhau.
Ngoài bán số lô, đề cho các thư ký, N còn bán trực tiếp cho người chơi, cụ thể:
Chiều ngày 04/9/2020 Nguyễn Công Cương, sinh năm 1964, HKTT ở Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen lắp sim số 0996.698.494 nhắn tin vào số thuê bao 0962.869.863 của N để mua các số lô, đề số đề tương ứng số tiền 977.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số, Cương trúng số lô 01 là 10 điểm tương ứng số tiền 800.000 đồng. Như vậy số tiền Cương và N đánh bạc ngày 04/9/2020 là 1.777.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền N tổ chức đánh bạc bằng hình thức tổ chức bán số lô, đề trong ngày 04/9/2020 là: 58.265.000 đồng + 15.600.000 đồng + 12.503.000 đồng + 3.505.000 đồng + 1.777.000 đồng = 91.650.000 đồng.
* Trong ngày 05/9/2020:
N sử dụng điện thoại Nokia 150 lắp số thuê bao 0962.869.963 để nhận số lô đề của thư ký đề và người chơi, cụ thể như sau:
- Tại mục tin nhắn có lưu tên “T” được N xác định là người thanh niên tên Tỉnh thể hiện nội dung Tỉnh mua các số đề giải đặc biệt gồm: đầu 5, đít 5 mỗi số 20.000 đồng. Tổng số tiền là 400.000 đồng. N không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ của Tỉnh ở đâu.
- Tại mục tin nhắn có lưu tên “Hiên E” có số thuê bao là 0329.104.985 được N xác định là Nguyễn T H, sinh năm 1969 ở thôn Đ, xã H S, huyện T D thể hiện nội dung H mua các số lô, đề với tổng số tiền là 1.832.000 đồng.
- Tại mục tin nhắn có lưu tên “Cương T” có số thuê bao là 0396.698.494 được N xác định là của Nguyễn C C, sinh năm 1964 ở Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh thể hiện nội dung Cương mua các số lô, đề với tổng số tiền là 861.000 đồng.
Kết quả kiểm tra các số lô đề N mua bán được trong ngày 05/9/2020 xác định:Tổng số tiền đề ở giải đặc biệt là: 1.702.000 đồng.
- Tổng số tiền lô là: 1.380.000 đồng.
- Tổng số tiền bán lô xiên là: 11.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền mua bán lô đề của N trong ngày 05/9/2020 là 3.093.000 đồng. Thời điểm cơ quan Công an bắt kiểm tra bắt quả tang hành vi đánh bạc của N ngày 05/9/2020 thì chưa đến giờ mở thưởng kết quả xổ sổ kiến thiết miền Bắc.
Ngày 14/9/2020 cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du đã tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn T H, Nguyễn T T, Nguyễn H L Nguyễn T Đ nhưng không thu giữ đồ vật tài liệu gì.
* Về vật chứng của vụ án:
- Lâm Đ N giao nộp:
+ Ngày 21/9/2020 N tự nguyện giao nộp 10.000.000 đồng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du.
+ Ngày 25/12/2020 N tự nguyện giao nộp 30.000.000 đồng tại Chi cục THADS huyện Tiên Du để đảm bảo cho việc thi hành án.
- Nguyễn H L giao nộp:
+ 01 (một) chiếc bút bị mực màu đen đã qua sử dụng
+ 01 tờ giấy A4 một mặt ghi các số lô đề
+ Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 23.865.000 đồng.
- Nguyễn T Đ giao nộp:
+ 01 (một) chiếc bút bi mực màu xanh, đã qua sử dụng
+ 01 (một) tờ giấy A4 được viết thành 04 cột dọc ghi các số lô đề bán được trong ngày 04/9/2020.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng kèm sim card đã qua sử dụng.
- Nguyễn T T giao nộp:
+ 01 (một) tờ giấy A4 ghi các số lô đề bán được trong ngày 04/9/2020 + Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.000.000 đồng.
- Nguyễn T Tgiao nộp:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen kèm simcard đã qua sử dụng.
- Nguyễn T Tgiao nộp:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1034 màu xanh đã qua sử dụng kèm simcard.
+ Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 575.000 đồng .
- Nguyễn T H giao nộp:
+ 02 (hai) tờ giấy ghi các số lô đề bán được trong ngày 04/9/2020.
+ 01 (một) bút bi mực màu đen.
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu trắng đen kèm sim card + Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.832.000 đồng.
- Nguyễn C C giao nộp:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen kèm simcard đã qua sử dụng.
+ Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.838.000 đồng.
Đối với những bảng cáp ghi các số lô đề mà N, L, Đ, T bán được cho người chơi các ngày trước đó. Sau khi so sánh kết quả xổ số và trả thưởng các bị can đã đốt các bảng cáp nên cơ quan CSĐT không thu giữ được.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và Samsung mà L, T sử dụng để nhắn tin mua bán số lô, đề với N, L và T đã làm mất, đến nay không thu hồi được.
Đối với số tiền 300.000.000 đồng thu giữ khi khám xét nơi ở của N, quá trình điều tra xác định số tiền này là của anh Lâm Đăng Cương, sinh năm 1986, HKTT ở Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh (là con trai của N). Anh Cương và N khai nhận đây là tiền anh đã đi vay để xây nhà trọ kinh doanh nhưng do chưa thuê được thợ, chưa làm được nên anh đã gửi N giữ hộ số tiền này. Xác định số tiền trên không liên quan đến việc phạm tội nên ngày 29/12/2020 Viện KSND huyện Tiên Du đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại anh Cương số tiền trên.
Với hành vi trên tại bản Cáo trạng số 06/Ctr-VKS ngày 08/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo:
- Lâm Đ N, Nguyễn H L về tội Tổ cức đánh bạc theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.
- Nguyễn T T, Nguyễn T Đ về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lâm Đ N, Nguyễn H L lần lượt khai nhận: Nội dung bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng. Các bị cáo có thực hiện những hành vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo N thừa nhận đã có hành vi tổ chức đánh bạc bằng hình thức nhận bảng cáp lô, đề từ thư ký là bị cáo L, bị cáo Đ, bị cáo T, chị Nguyễn T H và bán trực tiếp cho người chơi nếu ai có nhu cầu. Trong ngày 04/9/2020 N đã nhận bảng cáp lô, đề của những người chơi tổng cộng là 91.650.000đ; ngày 05/9/2020 tổng cộng là 3.093.000đ. Bị cáo L thừa nhận làm thư ký ghi lô, đề của những người chơi sau đó chuyển cho bị cáo N trong ngày 04/9/2020 tổng cộng là 58.265.000đ. Các bị cáo thừa nhận hành vi của mình là phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
Các bị cáo Nguyễn T Đ, Nguyễn T T lần lượt khai nhận: Nội dung bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng, các bị cáo có thực hiện những hành vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Các bị cáo thừa nhận đã đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề của những người chơi có nhu cầu rồi chuyển cho bị cáo N. Ngày 04/9/2020 bị cáo Đ chuyển cho bị cáo N bảng cáp số lô, đề tương ứng với số tiền 15.600.000đ; bị cáo T chuyển cho bị cáo N bảng cáp số lô, đề tương ứng với số tiền 12.503.000đ. Các bị cáo thừa nhận hành vi của mình là phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại cơ quan điều tra người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn T H, anh Nguyễn C C, anh Nguyễn T Th, chị Nguyễn Th Th lần lượt trình bày:
+ Chị Nguyễn T H trình bày: Chị làm thư ký ghi lô, đề cho ông Lâm Đ N, ngày 04/9/2020 chị bán số lô, đề cho người chơi tổng cộng được số tiền 1.505.000đ, tiền trúng thưởng là 2.000.000đ. Sau khi có kết quả H đã trả thưởng cho người chơi nhưng chưa thanh toán với N. Ngày 05/9/2020 chị bán số lô, đề cho người chơi tổng cộng só tiền là 1.832.000đ, số tiền này đã nộp tại cơ quan điều tra. Nay chiếc điện thoại bị thu giữ và số tiền bán số lô, đề ngày 04/9/2020 đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
+ Anh Nguyễn C C mua số lô, đề trực tiếp với Lâm Đ N ngày 04/9/2020 tổng cộng là 1.777.000đ, ngày 05/9/2020 tổng cộng là 861.000đ. Nay số tiền đánh bạc bằng hình thức chơi lô, đề và chiếc điện thoại để nhắn tin với N, anh đã nộp tại cơ quan điều tra. Anh không có ý kiến gì và đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
+ Chị Nguyễn T T trình bày: Ngày 04/9/2020 chị có mua số lô, đề của chị Nguyễn T T với tổng số tiền 2.575.000đ, trong đó tiền trúng là 2.000.000đ nhưng chưa thanh toán với T. Nay chiếc điện thoại để nhắn tin cho T mua số lô, đề và số tiền chơi là 575.000đ chị đã nộp tại cơ quan điều tra thì chị không có ý kiến gì và đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
+ Anh Nguyễn T Ttrình bày: Tôi có mua số lô, đề của chị Nguyễn T T với tổng số tiền là 100.000đ. Nay chiếc điện thoại để nhắn tin cho T mua số lô, đề và số tiền chơi là 100.000đ tôi đã nộp tại cơ quan điều tra thì tôi không có ý kiến gì và đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, tính chất, vai trò của từng bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo:
- Lâm Đ N, Nguyễn H L phạm tội Tổ chức đánh bạc.
Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Lâm Đ N từ 16 tháng tù đến 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 32 đến 40 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo N từ 25.000.000đ đến 30.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.
Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn H L từ 14 tháng tù đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 28 đến 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo L từ 20.000.000đ đến 25.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.
- Nguyễn T Đ, Nguyễn T T phạm tội Đánh bạc.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn T T từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo T từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s, o khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn T Đ từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo Đ.
Giao các bị cáo: Lâm Đ N, Nguyễn H L, Nguyễn T T, Nguyễn T Đ về UBND xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh để giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền dùng để đánh bạc tổng cộng là 29.110.000đ (hai chín triệu, một trăm mười nghìn đồng).
- Tịch thu sung Ngân sách nhà nước:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu xám kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu trắng đen kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu đen trắng kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1034 màu xanh kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng kèm simcard đã qua sử dụng.
- Tịch thu tiêu hủy:
+ Tiếp tục lưu giữ bảng cáp lô đề trong hồ sơ vụ án.
+ 02 (hai) chiếc bút bi mực màu xanh đã qua sử dụng.
+ 02 (hai) chiếc bút bi mực màu đen đã qua sử dụng.
- Tịch thu của bị cáo N số tiền 800.000đ để sung Ngân sách Nhà nước là số tiền Cương trúng thưởng khi mua số lô đề của N ngày 04/9/2020 nhưng N chưa thanh toán cho Cương. Trả lại bị cáo N 43.240.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Tịch thu của bị cáo Đ số tiền 8.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước là tiền Đ đã mua bán số lô, đề với những người chơi trong ngày 04/9/2020 mà Đ chưa thanh toán cho N. Trả lại bị cáo Đ số tiền 7.600.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Truy thu của bị cáo T số tiền 3.728.000đ để sung Ngân sách Nhà nước là tiền T đã mua bán số lô, đề với những người chơi trong ngày 04/9/2020 mà T chưa thanh toán cho N.
- Truy thu của chị Nguyễn T H, sinh năm 1969; HKTT: Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh số tiền 1.505.000đ dùng vào đánh bạc dưới hình thức bán số lô, đề ngày 04/9/2020 mà H chưa thanh toán cho N để sung Ngân sách Nhà nước.
Sau khi nghe bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không tham gia tranh luận mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Đã có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 18 giờ ngày 05/9/2020 Công an huyện Tiên Du phối hợp với Công an xã Hoàn Sơn kiểm tra hành chính nơi ở của Lâm Đ N tại Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh phát hiện N có hành vi tổ chức đánh bạc bằng hình thức nhận bảng cáp lô, đề từ các thư ký đề là Nguyễn H L, Nguyễn T Đ, Nguyễn T T và Nguyễn T H, ngoài ra N còn bán trực tiếp cho người chơi có nhu cầu, cụ thể như sau:
- Ngày 04/9/2020 N nhận bảng cáp lô đề do L gửi đến tương ứng số tiền 58.265.000 đồng, bảng cáp do Đ gửi đến tương ứng số tiền 15.600.000 đồng, bảng cáp do T gửi đến tương ứng số tiền 12.503.000 đồng, bảng cáp do H gửi đến tương ứng số tiền 3.505.000 đồng. Ngoài ra N còn bán trực tiếp cho Nguyễn C C với số tiền là 1.777.000 đồng. Như vậy tổng số tiền N tổ chức đánh bạc cho người chơi trong ngày 04/9/2020 là 91.650.000 đồng.
- Ngày 05/9/2020, N nhận bảng cáp lô, đề của H tương ứng số tiền 1.832.000 đồng. Bán số lô, đề cho Cương với số tiền là 861.000 đồng, bán số lô đề cho thanh niên tên Tỉnh với số tiền là 400.000 đồng. Tổng số tiền N đánh bạc trong ngày 05/9/2020 là 3.093.000 đồng.
Do vậy, bản cáo trạng số 06/Ctr-VKS ngày 08/01/2020 của VKSND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo Lâm Đ N, Nguyễn H L về tội Tổ chức đánh bạc theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; Nguyễn T Đ, Nguyễn T T về tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những gây mất trật tự trị an trên địa bàn mà còn trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng. Đây là một trong những tệ nạn xã hội thường là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp tài sản...mà dư luận nhân dân hiện nay Đng đòi hỏi và yêu cầu phải đưa ra xét xử nhằm giáo dục đối với các bị cáo để phòng ngừa chung trong nhân dân. Cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội cũng như nhân thân của từng bị cáo.
[4] Xét về vai trò của các bị cáo trong vụ án thì thấy:
Bị cáo Lâm Đ N là người có vai trò cao nhất, trực tiếp bị cáo nhận bảng cáp ghi số lô, đề của những người chơi và chơi bạc với anh Nguyễn C C và thanh niên tên Tỉnh và một số người khác; bị cáo Nguyễn H L là thư ký ghi số lô, số đề của những người chơi rồi chuyển gửi cho bị cáo N với tổng số tiền 58.265.000đ. Bị cáo Đ, bị cáo T trực tiếp ghi số lô, đề của những người chơi và cũng chuyển cho bị cáo N. Các bị cáo có hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc thể hiện vai trò đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, phân vai trong việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc. Nên các bị cáo sẽ chịu trách nhiệm hình sự cho chính hành vi phạm tội của mình, tương xứng mức độ hành vi phạm tội, số tiền dùng vào đánh bạc và nhân thân của từng bị cáo trong vụ án này.
[5] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo thì thấy:
+ Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn khối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
+ Bị cáo Nguyễn T Đ, Nguyễn T T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình; bị cáo Nguyễn T Đ phạm tội khi đã 74 tuổi và tự nguyện nộp số tiền 15.600.000đ để đảm bảo thi hành án nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm o khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo T có bố đẻ là ông Nguyễn Tiến Duyên được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba vì đã có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
+ Bị cáo Lâm Đ N đã tích cực hợp tác với cơ quan Công an để bắt giữ 02 đối tượng tàng trữ trái phép chất ma túy và đã tự nguyện nộp 30.000.000 đồng để đảm bảo thi hành án nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.
+ Bị cáo L có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự, sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện đã ra đầu thú nên được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Từ những phân tích như trên, căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ cũng như nhân thân của từng bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà cho các bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng có thể giúp các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, cần phạt bổ sung các bị cáo: N, L, T một khoản tiền sung vào Ngân sách nhà nước để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật là phù hợp. Riêng bị cáo Đ là người già, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn phạt bổ sung cho bị cáo Đ là phù hợp.
[7] Liên quan trong vụ án còn có:
- Nguyễn T H (làm thư ký đề cho N); Nguyễn Thị Thái, Nguyễn Tiến Thỏa, Nguyễn Khắc Cần, Nguyễn C C là những người mua số lô đề của T và N trong ngày 04, 05/9/2020. Xét thấy các đối tượng đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, số tiền tham gia đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Tiên Du đã quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
- Đối với người thanh niên tên Tỉnh mua số lô, đề của N ngày 05/9/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du đã tiến hành xác minh số thuê bao 0966.973.632 mà Tỉnh nhắn tin mua số lô đề của N. Qua xác minh xác định số thuê bao 0966.973.632 đăng ký tên chị Hoàng Thị Phượng, sinh năm 1990, HKTT ở xã Văn An, huyện Văn Quán, tỉnh Lạng Sơn. Chị Phương không sử dụng số thuê bao này và cũng không biết ai sử dụng số thuê bao này. Do vậy chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của đối tượng tên Tỉnh, khi nào xác định rõ sẽ xử lý sau.
- Đối với hành vi đánh bạc bằng hình thức bán số lô, đề trong ngày 05/9/2020 của N, do số tiền đánh bạc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du không xử lý hình sự là phù hợp. Tuy nhiên Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du không xử lý hành chính đối với hành vi đánh bạc của N là thiếu sót. Đối với vi phạm này, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du có văn bản kiến nghị riêng là đúng theo quy định của pháp luật.
- Đối với những người mua số lô, đề khác của L, Đ, T ngày 04/9/2020 và của H trong ngày 04 và 05/9/2020 do L, Đ, T, H không nhớ rõ là ai, không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể của những người này ở đâu nên chưa có căn cứ để xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
- Việc các bị cáo khai nhận có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua bán số lô, đề những ngày trước đó, do các bị cáo không nhớ tên, tuổi địa chỉ của những người đến mua số lô, đề. Các bảng cáp ghi số lô đề sau khi thanh toán tiền với người chơi các bị cáo đã xóa bỏ và tiêu hủy hết nên chưa đủ căn cứ để làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
[8] Về vật chứng của vụ án:
- Đối với số tiền 29.110.000đ bị thu giữ, xác định số tiền này dùng vào việc tổ chức đánh bạc và đánh bạc của các bị cáo và những người liên quan nên cần tịch thu sung Ngân sách nhà nước là phù hợp.
- Đối với với 07 chiếc điện thoại kèm simcard đã thu giữ, xác định đây là phương tiện mà các bị cáo và người liên quan bị thu giữ đã dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước là phù hợp. Đối với bảng cáp lô, đề cần tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án là phù hợp.
- Đối với 04 chiếc bút bi đã qua sử dụng bị thu giữ, xác định đây là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
- Đối với số tiền 800.000đ là tiền của Nguyễn C C trúng thưởng khi mua số lô, số đề của N mà N chưa thanh toán cho Cương. Xác định đây là số tiền dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu để sung Ngân sách Nhà nước là phù hợp. Quá trình điều tra N tự nguyện nộp 10.000.000đ, số tiền bị thu giữ khi bắt quả tang là 4.040.000đ không liên quan đến việc phạm tội, trước khi xét xử bị cáo N tự nguyện nộp 30.000.000đ. Tổng cộng là 44.040.000đ hiện Đng lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du. Sau khi khấu trừ đi số tiền cần tịch thu, trả lại bị cáo N số tiền 43.240.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Đối với số tiền Đ bán số lô, số đề cho người chơi ngày 04/9/2020 là 8.000.000đ nhưng chưa thanh toán cho N. Xác định đây là số tiền dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách nhà nước là phù hợp. Quá trình chờ xét xử bị cáo Đ tự nguyện nộp 15.600.000đ, Sau khi khấu trừ đi số tiền cần tịch thu, trả lại bị cáo Đ số tiền 7.600.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Đối với số tiền T đã mua bán số lô, đề với người chơi trong ngày 04/9/2020 mà chưa thanh toán cho N là 3.728.000đ. Xác định đây là số tiền dùng vào việc phạm tội nên cần truy thu sung Ngân sách nhà nước là phù hợp.
- Đối với số tiền 1.505.000đ mà chị Nguyễn T H bán số lô, số đề cho người chơi ngày 04/9/2020 mà chưa thanh toán với bị cáo N. Xác định đây là số tiền dùng vào việc đánh bạc nên cần truy thu sung Ngân sách nhà nước là phù hợp.
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
Tuyên bố các bị cáo:
QUYẾT ĐỊNH
- Lâm Đ N, Nguyễn H L phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
- Nguyễn T T, Nguyễn T Đ phạm tội “Đánh bạc”.
+ Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Lâm Đ N 18 (mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 36 (ba sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo N 30.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.
+ Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn H L 16 (mười sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 32 (ba hai) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo L 20.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.
+ Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn T T 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung bị cáo T 10.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.
+ Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s, o khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn T Đ 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Đ.
Giao các bị cáo: Lâm Đ N, Nguyễn H L, Nguyễn T T, Nguyễn T Đ về UBND xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh để giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp các bị cáo Lâm Đ N, Nguyễn H L, Nguyễn T T, Nguyễn T Đ muốn thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền dùng để đánh bạc tổng cộng là 29.110.000đ (Hai chín triệu, một trăm mười nghìn đồng).
- Tịch thu sung Ngân sách nhà nước:
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu xám kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu trắng đen kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 150 màu đen trắng kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1034 màu xanh kèm simcard đã qua sử dụng.
+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng kèm simcard đã qua sử dụng.
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 02 (hai) chiếc bút bi mực màu xanh đã qua sử dụng.
+ 02 (hai) chiếc bút bi mực màu đen đã qua sử dụng.
+ Tiếp tục lưu giữ các bảng cáp lô đề trong hồ sơ vụ án.
- Tịch thu của bị cáo N số tiền 800.000đ để sung Ngân sách Nhà nước. Xác nhận bị cáo N đã nộp tổng cộng 44.040.000đ, sau khi khấu trừ tiền bị tịch thu, trả lại bị cáo N 43.240.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Tịch thu của bị cáo Đ số tiền 8.000.000đ để sung Ngân sách Nhà nước.
Xác nhận bị cáo Đ đã nộp 15.600.000đ, sau khi khấu trừ tiền bị tịch thu, trả lại bị cáo Đ số tiền 7.600.000đ nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Truy thu của bị cáo T số tiền 3.728.000đ để sung Ngân sách nhà nước.
- Truy thu của chị Nguyễn T H, sinh năm 1969; HKTT: Thôn Đ, xã H S, huyện T D, tỉnh Bắc Ninh số tiền 1.505.000đ để sung Ngân sách nhà nước.
Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo: Lâm Đ N, Nguyễn H L, Nguyễn T T, Nguyễn T Đ. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
(Xác nhận bị cáo Lâm Đ N đã nộp 30.000.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2014/0009621 ngày 25/12/2020 và 14.040.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du; bị cáo Nguyễn T Đ đã nộp 15.600.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2014/0009627 ngày 08/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du).
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;
những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.
Bản án 39/2021/HSST ngày 27/01/2021 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 39/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về