Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 477/2020/TLST-HNGĐ ngày 28/10/2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 90/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23/4/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1984 HKTT: Số A, ấp M, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

Chỗ ở hiện nay: Ấp LA, xã H, huyện P, tỉnh Hậu Giang (có mặt).

* Bị đơn: Anh Trần Minh V, sinh năm 1987 HKTT: Số A, ấp M, xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 27/10/2020, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Vào năm 2019, chị với anh Trần Minh V tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 12/9/2019. Quá trình chung sống, anh chị có một con chung là cháu Trần Thúy H, sinh ngày 29/9/2020, sau khi chị sinh cháu H được khoảng 01 tháng thì anh V và gia đình gây áp lực bắt cháu H về nhà anh V. Trong thời gian chung sống, anh chị hay bất hòa, anh V nghe lời mẹ ruột mà không quan tâm đến chị, anh V đã nhiều lần làm đơn xin ly hôn với chị nhưng sau đó rút lại đơn. Nay nhận thấy vợ chồng sống chung không hạnh phúc nên chị yêu cầu ly hôn với anh V, xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung thì chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Trần Minh V đã được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán tiến hành các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của pháp luật, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự và quan hệ pháp luật đang tranh chấp là chính xác, tại phiên tòa Hội đồng xét xử đúng thành phần, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị T và anh V được ly hôn, giao con chung cho anh V nuôi, chị T không cấp dưỡng, về tài sản chung và nợ chung không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Anh Trần Minh V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng anh vắng mặt đến lần thứ hai mà không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, chị T và đại diện Viện kiểm sát đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh V nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt anh V.

[2] Năm 2019, chị Nguyễn Thị T với anh Trần Minh V tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 12/9/2019. Vì vậy, hôn nhân của anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chị T cho rằng sau một thời gian chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, anh V không quan tâm đến chị và đã nhiều lần muốn ly hôn với chị, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên hai người không còn chung sống với nhau, chị xin ly hôn với anh V. Thấy rằng: Hôn nhân giữa chị T và anh V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đã không còn chung sống với nhau, không có biện pháp hàn gắn tình cảm, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, tại phiên tòa chị T cương quyết xin ly hôn với anh V, anh V không có văn bản trình bày ý kiến của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T, cho chị và anh V được ly hôn để mỗi người tạo lập cuộc sống mới.

[3] Về con chung: Chị T và anh V có một người con chung là cháu Trần Thúy H, sinh ngày 29/9/2020, hiện nay cháu H đang sống chung với anh V. Tại phiên tòa chị T đồng ý giao con chung cho anh V nuôi đến tuổi trưởng thành, chị không cấp dưỡng nuôi con. Để cháu H ổn định tâm lý và môi trường sống. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, ghi nhận sự tự nguyện của chị T, giao cháu H cho anh V trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

con.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi [5] Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho chị T, không ai được quyền ngăn cản.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết, anh V không có văn bản trình bày ý kiến nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Như đã nhận định nêu trên, đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T.

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Trần Minh V.

2/. Về con chung: Giao cháu Trần Thúy H, sinh ngày 29/9/2020 cho anh Trần Minh V trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

3/. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị T không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

4/. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho chị Nguyễn Thị T, không ai được quyền ngăn cản.

5/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

6/. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai số 0006726 ngày 27/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng. Chị T đã nộp đủ tiền án phí. Anh V không phải chịu án phí sơ thẩm.

7/. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

8/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;