Bản án 39/2020/HSST ngày 05/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH – TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 39/2020/HSST NGÀY 05/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2020/TLST- HS ngày 09 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo:

Phạm Văn B, sinh năm: 1996; Nơi cư trú: Đội 10, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Trình độ văn hóa: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Phạm Văn T (đã chết); Mẹ đẻ: Trần Thị Th, sinh năm: 1969; Nơi cư trú: Đội 10, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định; gia đình có 2 anh em, bị cáo là thứ 2; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 18/3/2020 bị Công an xã Trực Khang, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản (phạt tiền 1.500.000 đồng).

Bị cáo Phạm Văn B bị tạm giữ từ ngày 18/5/2020 đến ngày 27/5/2020, tạm giam từ ngày 27/5/2020 đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Ngô Văn Y, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Đội 3, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đêm ngày 17/5/2020, Phạm Văn B lấy xe đạp của mẹ là bà Trần Thị Th đi lên khu vực xã Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng để mua ma tuý sử dụng, không mua được ma tuý B quay về nhà. Khi về đến khu vực thuộc đội 3, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định, khoảng hơn 0l giờ ngày 18/5/2020. B nhìn thấy quán bán phở của anh Ngô Văn Y đang mở cửa, trước cửa quán có để một chiếc xe mô tô biển số 18S1-1792, nhãn hiệu HAESUN màu sơn nâu, cắm chìa khoá ở ổ khoá điện. B nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này để bán lấy tiền mua ma tuý sử dụng. B đi xe đạp qua quán phở khoảng 15m, để xe đạp ở lề đường rồi đi bộ quay lại, quan sát thấy trong nhà có một người đàn ông đang nằm trên ghế võng xe m ti vi mặt quay vào phía trong, xung quanh không có người và phương tiện qua lại. B lén lút dắt chiếc xe mô tô đến chỗ để xe đạp. B để xe đạp lên yên xe mô tô, rồi đi về hướng thị trấn Liễu Đề. Khi đi được khoảng 500m thì bị quần chúng nh ân dân phát hiện bắt giữ, lúc này lực lượng Cảnh sát giao thông Công an huyện Trực Ninh đi công tác qua được biết là Phạm Văn B vừa lấy trộm xe mô tô. Tổ công tác đã báo cho lực lượng Công an xã Trực Thuận, Công an huyện Trực Ninh lập biên bản bắt giữ Phạm Văn B.

Vật chứng thu giữ:

01 xe đạp nữ màu xanh; 01 chiếc xe mô tô biển số 18S1-1792, nhãn hiệu HAESUN màu sơn nâu.

Bản kết luận định giá tài sản số 06 ngày 14/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Trực Ninh xác định: Chiếc xe mô tô biển số 18S1-1792, nhãn hiệu HAESUN màu sơn nâu có giá trị: 2.050.000 đồng (Hai triệu không trăm năm mươi nghìn đồng).

Đối với chiếc xe đạp B tự ý lấy đi trộm cắp, là tài sản của bà Trần Thị Th (mẹ đẻ của B), CQ CSĐT Công an huyện Trực Ninh đã trả lại cho bà Th.

Đối với xe mô tô biển số 18S1-1792, nhãn hiệu HAESUN màu sơn nâu là tài sản hợp pháp của anh Ngô Văn Y, Cơ quan CSĐT Công an huyện Trực Ninh trả lại cho anh Y, anh Y không yêu cầu bồi thường thêm về dân sự.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Cáo trạng số 35/KSĐT ngày 09 tháng 7 năm 2020, VKSND huyện Trực Ninh đã truy tố bị cáo Phạm Văn B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên toà:

- Bị cáo Phạm Văn B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Bị cáo ăn năn hối cải, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện VKSND huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173 BLHS, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị HĐXX; xử phạt bị cáo Phạm Văn B từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 5 năm 2020.

Trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Phạm Văn B, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Trực Ninh, Điều tra viên, VKSND huyện Trực Ninh, KSV trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như; Biên bản ghi lời khai của người bị hại; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng; Biên bản thu giữ vật chứng; Kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 18/5/2020, Phạm Văn B có hành vi lén lút lấy trộm của anh Ngô Văn Y chiếc xe mô tô biển số 18S1-1792, nhãn hiệu HAESUN màu sơn nâu, đã qua sử dụng trị giá 2.050.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS như Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh đã truy tố đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đã có tiền sự: Ngày 18/3/2020, bị Công an xã Trực Khang, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản (phạt tiền 1.500.000 đồng), bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát. HĐXX xét thấy: Về hình phạt; Cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: HĐXX xét thấy, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm Dân sự: Cơ quan CSĐT Công an huyện Trực Ninh đã trả lại cho anh Ngô Văn Y chiếc xe mô tô biển số 18S1-1792, nhãn hiệu HAESUN màu sơn nâu, đã qua sử dụng, anh Ngô Văn Y đã nhận lại tài sản, không yêu cầu B phải bồi thường thêm khoản nào khác, nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[9] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn B phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 BLHS;

Xử phạt bị cáo Phạm Văn B 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 5 năm 2020.

2. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Văn B phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày; Bị cáo Phạm Văn B có quyền kháng cáo kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 39/2020/HSST ngày 05/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:39/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;