Bản án 38/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng cầm cố đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 38/2024/DS-ST NGÀY 26/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ ĐẤT

Ngày 26 tháng 3 năm 2024 tại Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 119/2023/TLST- DS ngày 15 tháng 3 năm 2023 về tranh chấp “Hợp đồng cầm cố đất ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST- DS ngày 10 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn T, inh năm: 1961 và bà Ngô Thị Đ, sinh năm: 1969 (có mặt) Cùng địa chỉ cư trú: Ấp Gành H, xã Tạ An Khương Đ, huyện Đầm D, tỉnh C.

Bị đơn: Ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp Gành H, xã Hoà T, thành phố C, tỉnh C.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Trung T (xin vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: Số 54, Lý Thường K, khóm , phường , thành phố C, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, ông Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ là nguyên đơn trình bày:

Vào ngày 10/7/2004 âm lịch (al), vợ chồng ông, bà có nhận cố đất vuông diện tích khoảng 09 công tầm cấy, phần đất tọa lạc ấp Gành Hào 1, xã Hòa Tân thành phố C, tỉnh C của vợ, chồng ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th với giá 10 cây vàng 24kara, thời hạn cố đất 03 năm đến ngày 10/7/2007 al thì bên ông B, bà Th mới được quyền chuộc lại đất. Nếu ông B, bà Th không chuộc lại thị vợ, chồng ông, bà có quyền sử dụng phần đất trên, khi vợ chồng ông B muốn chuộc lại thì thông báo cho vợ, chồng ông bà biết trước thời hạn 03 tháng.

Khi đến thời hạn chuộc lại đất vào ngày 10/7/2007 thì vợ, chồng bà có liên hệ với vợ, chồng ông B, bà Th để chuộc đất và trả vàng cho vợ, chồng ông, bà nhưng vẫn không thực hiện.

Nay nguyên đơn Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ yêu cầu hủy hợp đồng cầm cố đất ngày 10/7/2004 (al), giữa ông Phùng Hoàng B, bà Đặng Thị Th với ông, bà.

Buộc ông Phùng Hoàng B, bà Đặng Thị Th phải trả lại 10 cây vàng 24Kara cho ông, bà.

*Bị đơn ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th:

Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng, thông báo, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập đến Toà để tham gia tố tụng, nhưng ông, bà không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu của nguyên đơn.

*Nời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trung T trình bày tại biên bản ghi ý kiến như sau:

Ông là người trực tiếp mua tài sản qua hình thức đấu giá của cơ quan Thi hành án đối với phần đất.

Ông xác định đối với yêu cầu của nguyên đơn ông T không liên quan trong vụ án.

Ông xin xét xử vắng mặt trong vụ án.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, không có vi phạm.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Chi phí tố tụng nguyên đơn không đặt ra nên không xem xét hoàn cho nguyên đơn là phù hợp.

Án phí nguyên đơn không phải nộp, bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tung: Quá trình giải quyết vụ án phía ông Phùng Hoàng B, bà Đặng Thị Th vắng mặt, ông Nguyễn Trung T xin vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định.

[2] Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp hợp đồng cố đất, phần đất tọa lạc ấp Gành Hào 1, xã Hòa Tân, thành phố C, tỉnh C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 26 và 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu nguyên đơn thấy rằng:

Nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông Phùng Hoàng B, bà Đặng Thị Th trả lại số tiền cố đất và hủy hợp đồng cố đất ngày 10/7/2004.

Chứng cứ có tại hồ sơ tại hợp đồng cố đất ngày 10/7/2004 âl giữa ông Phùng Hoàng B bà Đặng Thị Th với ông Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ theo đó hai bên thỏa thuận ông Phùng Hoàng B, bà Đặng Thị Th cố đất khoảng 09 công tầm cấy, giá cố đất 10 cây vàng 24Kara, thời hạn cố đất 03 năm, nếu ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th không chuộc thì ông Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ có quyền tiếp tục sử dụng đất. Nếu chuộc thì phải thông báo trước 03 tháng. Phần đất có tứ cận giáp phần đất gồm bà Huỳnh Thị H, ông Lâm Văn T, ông Phạm Phước A, ông Phạm Văn X. Hai bên có ký tên xác nhận và có sự chứng kiến của các hộ giáp ranh đất ký tên vào hợp đồng cố đất vào ngày 10/7/2004 âl.

[4] Vào ngày 26/12/2023 Tòa án tiến hành xem xét thẩm định thể hiện phần đất cố đã được ông Nguyễn Trung T là người mua tài sản đấu giá của Tổ chức đấu giá Công ty đấu giá hợp danh Thanh Bình với người có tài sản đấu giá là Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C vào ngày 07/8/2023. Bao gồm quyền sử dụng đất các thửa đất số 493, 462, 463, 464, 465, 466 và 505 tờ bản đồ số 11, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng điều chỉnh trên giấy chứng nhận tên ông Nguyễn Văn Ch ngày 27/4/2027, tổng diện tích 28.577,6m2, trong đó đất nuôi trồng thủy sản 21.641,6 m2 . Hiện ông T là người được trúng tài sản đấu giá trên phần đất mà nguyên đơn cố đất của bị đơn.

[5] Tại phiên tòa nguyên đơn xác định yêu cầu hủy hợp đồng cố đất ngày 10/7/2004 và yêu cầu bị đơn hoàn trả số vàng lại cho nguyên đơn.

Xét thấy tại thời điểm các bên thực hiện giao dịch cầm cố đất với nhau, đối chiếu với quy định của Bộ luật dân sự và Luật đất đai thì không quy định người sử dụng đất được cầm cố quyền sử dụng đất. Do đó xác định hợp đồng cầm cố trên là vô hiệu.

Tại phiên tòa nguyên đơn không yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mà yêu cầu hủy hợp đồng cố đất.

Nên khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận do phần đất đã được ông Nguyễn Trung T là người đã mua tài sản đấu giá và đang tiến hành làm thủ tục nên không xem xét việc nguyên đơn giao lại cho bị đơn phần đất đã cố. Đồng thời ông Nguyễn Trung T xác định không liên quan không yêu cầu gì trong vụ án.

Đối với số vàng đã nhận thể hiện trong hợp đồng cố đất ngày 10/7/2004 thể hiện bên nguyên đơn bà Ngô Thị Đ với ông Huỳnh Văn T đã giao cho ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th bao gồm 17 chiếc khâu tổng cộng bằng 10 cây vàng 24kara, bị đơn ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th đã nhận, ký tên khi lập xong hợp đồng cố đất vào ngày 10/7/2004, đồng thời có xác nhận của những hộ giáp ranh phần đất và có làm văn bản xác nhận phía ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th đã nhận đủ số vàng trên. Do đó buộc bị đơn ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th hoàn trả cho nguyên đơn số vàng trên là có căn cứ chấp nhận.

Từ phân tích trên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th hoàn trả 10 cây vàng 24kara cho nguyên đơn và Tuyên bố hợp đồng cố đất là vô hiệu.

[6] Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên căn cứ vào các Điều 157, 158 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền chi phí xem xét thẩm định. Tuy nhiên, tại phiên tòa nguyên đơn không đặt ra yêu cầu nên hội đồng không xem xét đến là phù hợp.

[7] Bà Đặng Thị Th với ông Phùng Hoàng B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận trên số vàng 10 cây vàng 24kara (giá 01 chỉ vàng 6.780.000 đồng) và án phí hợp đồng; Nguyên đơn không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 147, 157, 158, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, 131, 309 của Bộ luật dân sự 2015 ; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ. Tuyên xử:

- Tuyên bố hợp đồng cố đất ngày 10/7/2004 âm lịch giữa nguyên đơn ông Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ với bị đơn ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th là vô hiệu.

- Buộc ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th trả lại cho ông Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ 10 (mười) cây vàng 24 kara (vàng cố đất).

2/ Án phí dân sự sơ thẩm:

- Án phí dân sự sơ thẩm ông Huỳnh Văn T và bà Ngô Thị Đ không phải nộp. Đã dự nộp ngày 24/10/2023, số tiền 300.000 đồng, tại lai thu số 0008532 đường hoàn lại toàn bộ khi bản án có hiệu lực.

- Án phí dân sự sơ thẩm ông Phùng Hoàng B và bà Đặng Thị Th phải nộp số tiền 31.420.000 đồng (chưa nộp).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền kháng cảo bản án trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2024/DS-ST về tranh chấp hợp đồng cầm cố đất

Số hiệu:38/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;