Bản án 38/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 45/2020/HSST ngày 24 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2020/QĐXXST - HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Tòng Văn T - Sinh năm 1996; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản T1, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ mú; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Tòng Văn L và bà Tòng Thị L1; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 22/9/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Vàng Thị V1 - Sinh ngày 15/7/2002; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản H, xã D, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Vàng Sua P và bà Ly Thị Dq; Bị cáo chưa có chồng, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 22/9/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 22/9/2020 tổ công tác Công an thị trấn S1, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản Q, xã N, huyện S phát hiện và bắt quả tang Tòng Văn T và Vàng Thị V1 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ 02 gói nilon màu hồng do V1 thả xuống nền bê tông, bên trong đó có 01 gói chứa 19 viên nén hình tròn màu hồng và 01 gói chứa 08 viên nén hình tròn màu hồng (V1 khai nhận là hồng phiến T đưa cho cầm để mang về cùng nhau sử dụng), thu giữ tại túi quần bên phải đang mặc của T 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 gói nilon màu hồng chứa 03 viên nén hình tròn màu hồng (T khai nhận là Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng tổng cộng là 30 viên nén màu hồng cùng một số đồ vật, tài sản khác.

Ngày 23/9/2020 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả:

- Gói nilon màu hồng thứ nhất bên trong chứa 19 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 1,90 gam, trích 01 viên có tổng khối lượng 0,10 gam để giám định ký hiệu T1, vật chứng còn lại 18 viên có tổng khối lượng 1,80 gam ký hiệu V1.

- Gói nilon màu hồng thứ hai bên trong chứa 08 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 0,78 gam, trích 01 viên có tổng khối lượng 0,10 gam để giám định ký hiệu T2, vật chứng còn lại 07 viên có tổng khối lượng 0,68 gam ký hiệu V2.

- Gói nilon màu hồng thứ ba bên trong chứa 03 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 0,30 gam, trích 01 viên có tổng khối lượng 0,10 gam để giám định ký hiệu T3, vật chứng còn lại 02 viên có tổng khối lượng 0,20 gam ký hiệu V3.

Kết luận giám định số 1513 ngày 25/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1, T2, T3 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là T1 = 0,10 gam, T2 = 0,10 gam, T3 = 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,98 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 22/9/2020 T điều khiển xe mô tô BKS 89B1 – 040.55 và mang theo số tiền 1.000.000đ đi vào khu vực xã M, S để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến địa phận xã M thì T gặp và hỏi mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đứng ở ven đường 30 viên hồng phiến với giá 1.000.000đ. Sau khi mua được ma túy T mang về phòng trọ tại bản G, xã N chia gói hồng phiến thành 03 gói riêng, gồm: 01 gói chứa 19 viên, 01 gói chứa 08 viên, 01 gói chứa 03 viên, tất cả được gói trong mảnh nilon màu hồng và cất vào trong ví da màu đen cho vào túi quần đang mặc. Sau đó T đi sang thị trấn S1 rủ bạn gái là Vàng Thị V1 đi chơi, khi T chở V1 đến khu vực bản X, xã N, huyện S thì T dừng xe lấy trong ví ra đưa cho V1 02 gói hồng phiến (01 gói chứa 19 viên và 01 gói chứa 08 viên) và nói: “Em cầm lấy khi nào đi uống trà sữa xong thì về bọn mình cùng chơi”, V1 đồng ý cầm 02 gói hồng phiến ở trong lòng bàn tay trái. Sau khi cùng nhau đi uống nước và quay trở về đến đoạn đường thuộc bản Q, N, S thì bị tổ công tác Công an Thị trấn S1 làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKSSM ngày 23 tháng 12 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Tòng Văn T, Vàng Thị V1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Tòng Văn T từ 36 - 42 tháng tù, bị cáo Vàng Thị V1 từ 24 - 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng 03 mảnh nilon, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 ví giả da, trả lại điện thoại di động và 01 xe mô tô cho bị cáo T; Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo và tuyên quyền kháng cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo nhất trí với nội dung của bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì, khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 17 giờ 30 phút, ngày 22/9/2020, đối với Tòng Văn T và Vàng Thị V1;

- Vật chứng bị thu giữ là 30 viên nén màu hồng; Kết luận giám định số 1513 ngày 25/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1, T2, T3 là ma túy..., khối lượng của mẫu gửi giám định là T1 = 0,10 gam, T2 = 0,10 gam, T3 = 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,98 gam, loại Methamphetamine”;

- Lời khai của các bị cáo về việc đã bắt đầu sử dụng ma tuý nên ngày 22/9/2020 bị cáo T có mua 30 viên hồng phiến về mục đích để sử dụng, sau khi mua được đã đưa cho bị cáo V1 cầm 27 viên, còn mình cất giữ 03 viên thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án và khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố các bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 22/9/2020 bị cáo Tòng Văn T có hành vi tàng trữ 2,98 gam Methamphetamin, bị cáo Vàng Thị V1 có hành vi tàng trữ 2,68 gam Methamphetamin mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Trong vụ án này bị Tòng Văn T là người bỏ tiền và trực tiếp đi mua được 30 viên ma túy loại Methamphetamine (sau đây gọi là viên hồng phiến), sau khi mua được đã đưa cho bị cáo V1 cầm giữ 27 viên. Tuy không có sự bàn bạc từ trước và bị cáo V1 không có hành vi góp tiền cùng đi mua ma túy với bị cáo T, nhưng bị cáo V1 biết và có hành vi trực tiếp cầm giữ 27 viên hồng phiến do bị cáo T đưa cho. Vì vậy, bị cáo T giữ vai trò chính trong vụ án và phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy thu giữ là 30 viên hồng phiến với tổng khối lượng 2,98 gam, bị cáo V1 giữ vai trò đồng phạm và phải chịu trách nhiệm về 27 viên hồng phiến có tổng khối lượng 2,68 gam.

nh vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội. Do vậy, cần có một mức án tương xứng với vai trò, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và khối lượng số ma túy mỗi bị cáo phải chịu trách nhiệm trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để đưa ra một mức án phù hợp nhất áp dụng đối với từng bị cáo nhằm giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình các bị cáo đều thuộc cận nghèo, hộ nghèo không có tài sản gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông dân tộc Mông bị cáo T khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không có căn cứ mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là vật nhà nước cấm tàng trữ và lưu hành, cùng 03 mảnh nilon màu hồng, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 ví giả da là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 điện thoại di động là tài sản cá nhân của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo; Đối với 01 chiếc xe mô tô thu giữ trong vụ án là tài sản của bị cáo T và sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo T thuộc hộ cận nghèo, gia đình bị cáo V1 thuộc hộ nghèo nên hai bị cáo được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tuyên bố các bị cáo Tòng Văn T, Vàng Thị V1 phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Tòng Văn T 40 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/9/2020.

Xử phạt bị cáo Vàng Thị V1 32 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/9/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án, thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án (15/01/2021).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 2,68 gam Methamphetamine cùng 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 03 mảnh nilon màu hồng, tất cả được đựng trong 01 phong bì thư đã niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 027783.

+ 01 ví giả da màu đen.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, màu đen, BKS 89B1 - 040.55.

- Trả lại cho bị cáo Tòng Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màu vàng, điện thoại đã qua sử dụng.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 09 ngày 23/12/2020 của VKSND huyện Sông Mã và theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/12/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Tòng Văn T, Vàng Thị V1.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;