Bản án 38/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 02 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2021/HSST ngày 28 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/ 2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 10/10/1995; tại tỉnh Quảng Bình; Nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Lê L; sinh năm: 1973 và bà Hà Thị H; sinh năm: 1977; ông, bà làm ruộng và trú tại: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Quảng Bình; gia đình có 03 anh em; bị cáo là con đầu, chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/12/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đồng Hới. Bị cáo có mặt tại phiên tòa theo lệnh trích xuất.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Nguyễn Thị H; Sinh ngày: 12/02/1963; Địa chỉ: Tổ dân phố 9, phường L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

2. Trương Đăng T; Sinh ngày: 10/9/1991; Địa chỉ: xã N, huyện N, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 15 phút ngày 23/12/2020, tại trước số nhà 01 đường C, thuộc tổ dân phố 3, phường P, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố H phối hợp với Phòng Cảnh sát Cơ động - Công an tỉnh Quảng Bình tuần tra, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn L đang có hành vi cất giấu trong túi áo khoác bên phải 01 túi nilon bên trong có 10 viên nén hình tròn, màu hồng, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”.

Tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ của L tại tổ dân phố 13, phường L, thu giữ 01 túi nilon bên trong chứa 102 viên nén hình tròn, màu hồng, trên một mặt mỗi viên in chữ “WY”.

Nguồn gốc số ma túy L khai nhận: Khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, L điều khiển xe mô tô BKS 73K7-7153 (xe của anh Trương Đăng T) từ tổ dân phố 9, phường L đến khu vực chợ L, gặp và mua ma túy của một nam thanh niên không rõ lý lịch 112 viên ma túy với giá 2.600.000 đồng. L đem về phòng trọ ở tổ dân phố 13, phường L cất giấu 102 viên ma túy, còn lại 10 viên ma túy L giấu trong túi áo khoác bên phải rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ.

Tại Bản kết luận giám định số 23 ngày 28/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 10 viên nén hình tròn, dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên in chữ “WY” (ký hiệu A1) gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,901 gam; 102 viên nén hình tròn, dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên in chữ “WY” (ký hiệu A2) gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 9,121 gam.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới thu giữ: 01 túi nilon bên trong chứa 10 viên ma tuý loại Methamphetamine, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, khối lượng 0,901 gam, hoàn trả sau giám định 0,759 gam (ký hiệu A1); 01 túi nilon bên trong chứa 102 viên ma tuý loại Methamphetamine, trên một mặt mỗi viên có in chữ “WY”, khối lượng 9,121 gam, hoàn trả sau giám định 8,809 gam (ký hiệu A2) và toàn bộ vỏ bao gói; 01 xe mô tô nhãn hiệu ESPECIAL màu đỏ, BKS 73K7-7153 của anh Trương Đăng T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s màu xám và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 của Nguyễn Văn L.

Bản Cáo trạng số 28/CT-VKSĐH-MT ngày 26/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn L ra trước Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã phát biểu lời luận tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo Nguyễn Văn L đã thực hiện. Giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX, xét xử bị cáo đúng như toàn bộ nội dung bản cáo trạng; tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt Nguyễn Văn L từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo việc làm không ổn định, không có thu nhập và tài sản nên đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư đã được niêm phong số 23/ GĐ- PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình hoàn trả sau giám định, trên phong bì niêm phong có ghi chữ “Mẫu ký hiệu A1 và A2” bên trong chứa 9,568 g (chín phẩy năm trăm sáu mươi tám gam) Methaphetamine hoàn trả sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói.

- Trả lại cho anh Trương Đăng T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu ESPECIAL, màu đỏ, biển kiểm soát 73K7-7153, số máy: 005308; số khung: 009464 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong (theo Kết luận giám định số 446/GĐ-PC09 ngày 09/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình ghi nhận: xe mô tô trên đóng nhãn hiệu DEAMU, màu sơn đỏ, số khung “VSABCH043SA*009468*” có dấu hiệu đóng lại nhưng không làm thay đổi nội dung nguyên thủy; số máy “DM110E0005308”;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s màu xám, số Imei: 355766077630835, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, số Imei: 354185101261239, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Hới đã tiến hành xác minh đối tượng bán ma túy cho L nhưng chưa xác định được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Ngày 23/12/2020, tại trước số nhà 01 đường C, thuộc tổ dân phố 3, phường P, Nguyễn Văn L đang tàng trữ 10 viên ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng 0,901gam thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Khám xét nơi ở của L ở tổ dân phố 13, phường L, thu giữ 102 viên ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 9,121 gam. Tổng khối lượng 112 viên là 10,022 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân đúng như Bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Hới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới công bố bản cáo trạng Nguyễn Văn L đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến cùng tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp cả về mặt thời gian, địa điểm và diễn biến quá trình phạm tội. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: Ngày 23/12/2020, tại trước số nhà 01 đường C, thuộc tổ dân phố 3, phường P, Nguyễn Văn L đang tàng trữ 10 viên ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng 0,901gam thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Khám xét nơi ở của L ở tổ dân phố 13, phường L, thu giữ 102 viên ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 9,121 gam. Tổng khối lượng 112 viên là 10,022 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, Nguyễn Văn L phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã truy tố.

[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Hành vi của bị cáo L là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ ma túy là chất độc hại gây nghiện ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, sự phát triển của xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm hại chính sách độc quyền của Nhà nước về ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự khác. Bị cáo L đã ở độ tuổi chín chắn hiểu biết pháp luật, có đầy đủ khả năng nhận thức tác hại của việc sử dụng ma túy nhưng bị cáo lại có hành vi cất giấu ma túy với mục đích sử dụng cá nhân. Vì vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm tạo điều kiện cho bị cáo học tập, cải tạo phấn đấu trở thành người tốt, biết tôn trọng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo L không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi lượng hình cũng xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo việc làm không ổn định, không có thu nhập và tài sản, mục đích tàng trữ ma túy của bị cáo chỉ sử dụng cho bản thân chứ không có mục đích nào khác, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo L.

Do bị cáo đang bị tạm giam nên cần tiếp tục tạm giam để đảm bảo thi hành án, theo quy định tại Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[7] Xử lý vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư đã được niêm phong số 23/ GĐ- PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình hoàn trả sau giám định, trên phong bì niêm phong có ghi chữ “Mẫu ký hiệu A1 và A2” bên trong chứa 9,568 g (chín phẩy năm trăm sáu mươi tám gam) Methaphetamine hoàn trả sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói.

- Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu ESPECIAL, màu đỏ, biển kiểm soát 73K7-7153, vào ngày 23/12/2020, anh Trương Đăng T cho Nguyễn Văn L mượn xe mô tô trên để sử dụng, việc bị cáo L sử dụng xe mô tô trên đi đâu, làm gì anh T không rõ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Hới đã tiến hành xác minh, xác định xe mô tô trên hiện do anh T quản lý hợp pháp do đó cần trả lại cho anh Trương Đăng T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu ESPECIAL, màu đỏ, biển kiểm soát 73K7-7153, số máy: 005308; số khung: 009464 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong (theo Kết luận giám định số 446/GĐ-PC09 ngày 09/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình ghi nhận: xe mô tô trên đóng nhãn hiệu DEAMU, màu sơn đỏ, số khung “VSABCH043SA*009468*” có dấu hiệu đóng lại nhưng không làm thay đổi nội dung nguyên thủy; số máy “DM110E0005308”;

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s màu xám và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh của bị cáo L nhưng bị cáo không sử dụng vào việc liên lạc mua ma túy nên cần trả lại cho bị cáo:

- Trả lại cho bị cáo L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s màu xám, số Imei: 355766077630835, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Trả lại cho bị cáo L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, số Imei: 354185101261239, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Các vật chứng trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2021.

[8] Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã tiến hành xác minh đối tượng bán ma túy cho L nhưng chưa xác định được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015; Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về Điều luật áp dụng: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/12/2020.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Văn L 45 ngày theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử, để đảm bảo thi hành án.

4. Xử lý vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư đã được niêm phong số 23/ GĐ- PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình hoàn trả sau giám định, trên phong bì niêm phong có ghi chữ “Mẫu ký hiệu A1 và A2” bên trong chứa 9,568 g (chín phẩy năm trăm sáu mươi tám gam) Methaphetamine hoàn trả sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói.

- Trả lại cho anh Trương Đăng T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu ESPECIAL, màu đỏ, biển kiểm soát 73K7-7153, số máy: 005308; số khung: 009464 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong (theo Kết luận giám định số 446/GĐ-PC09 ngày 09/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình ghi nhận: xe mô tô trên đóng nhãn hiệu DEAMU, màu sơn đỏ, số khung “VSABCH043SA*009468*” có dấu hiệu đóng lại nhưng không làm thay đổi nội dung nguyên thủy; số máy “DM110E0005308”;

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple Iphone 6s màu xám, số Imei: 355766077630835, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu xanh, số Imei: 354185101261239, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Các vật chứng nêu trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2021.

5. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (02/6/2021), người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 38/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;